Quyết định giám đốc thẩm số 128/2024/DS-GĐT ngày 06/6/2024 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử vụ án dân sự về “Tranh chấp hợp đồng tín dụng, hợp đồng tặng cho, chuyển nhượng và thế chấp quyền sử dụng đất”
Nội dung hủy án:
1. Về Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày 20/5/2008 giữa ông Nguyễn Thanh H5 với ông Nguyễn Thanh D: Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ thể hiện ngày 20/5/2008, ông H5 đã lập Hợp đồng tặng cho toàn bộ diện tích 12.070m2 cho ông D, hợp đồng này được chứng thực tại xã GX, huyện PĐ (số chứng thực 336, quyển 01/TP/CCSCT/HĐGD). Sau khi ký hợp đồng tặng cho thì ông D đã thực hiện thủ tục chỉnh lý sang tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và được Văn phòng đăng ký đất đai huyện PĐ chỉnh lý biến động ngày 23/5/2008. Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm đã lập các thủ tục xác minh sao lục Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất tại Văn phòng đăng ký đất đai huyện PĐ nhưng hồ sơ lưu trữ đã bị hư hỏng theo Biên bản xác minh ngày 15/02/2022 và ngày 23/6/2022. Đồng thời, các đương sự cũng không cung cấp được Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất; chỉ có nội dung trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 032379QSDĐ ngày 15/11/1995 cấp cho ông Nguyễn Thanh H5 thể hiện: “Ngày 23/5/2008 đã tặng cho QSDĐ hết diện tích 12.070m2 cho con ruột là ông Nguyễn Thanh D, SN: 1969,… Theo hợp đồng tặng cho QSDĐ được UBND xã GX chứng thực số: 336; quyển 01/TP/CC-SCT/HĐCL ngày 20/5/2008. Ông Nguyễn Thanh D hiện được quyền sử dụng 12.070m2”. Trong quá trình giải quyết vụ án, ông D, ông L2 đều xác định nguồn gốc đất là thuộc quyền sử dụng của ông Nguyễn Thanh H5, bà Nguyễn Thị M1 (cha, mẹ ruột của ông D, ông L2), Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất không có bà M1 ký tên. Trong khi đó, tại nội dung cập nhật trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông H5 chỉ thể hiện ông H5 tặng cho ông D, không có bà M1. Tòa án hai cấp chưa xác minh, làm rõ quyền sử dụng thửa đất số 194, 195, 199 là tài sản riêng của ông H5 hay là tài sản chung của vợ chồng ông H5, bà M1 trong thời kỳ hôn nhân mà đã xác định Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất có hiệu lực pháp luật là chưa đủ căn cứ, ảnh hưởng quyền lợi hợp pháp của những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của bà M1.
2. Về giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu: Tòa án cấp phúc thẩm và sơ thẩm chưa xác định nguyên đơn, bị đơn cùng những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu hay không. Tuy nhiên, Bản án phúc thẩm quyết định Chi cục Thi hành án dân sự huyện PĐ chi trả số tiền từ bán đấu giá một phần thửa đất số 194, 195, 199 (đối tượng của Hợp đồng chuyển nhượng) cho Ngân hàng NNVN và thanh toán cho người được thi hành án theo Quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu số 483/QĐ.THA ngày 05/4/2011, tức là đã giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu là chưa phù hợp.
3. Bản án phúc thẩm còn quyết định Chi cục Thi hành án dân sự huyện PĐ chi trả từ số tiền bán đấu giá thanh toán cho người được thi hành án theo Quyết định thi hành án số 483/QĐ.THA ngày 05/4/2011 là không đúng. Bởi lẽ, Quyết định thi hành án xuất phát từ việc thi hành Quyết định sơ thẩm buộc ông H1, bà L1 trả cho bà Phạm Thị Hương T số tiền 689.080.000 đồng. Như đã phân tích ở trên, số tiền từ bán đấu giá tài sản thuộc sở hữu của ông D nhưng Bản án phúc thẩm lại quyết định chi trả từ số tiền này để thực hiện nghĩa vụ thi hành án của ông H1, bà L1 là không đúng pháp luật, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi hợp pháp của ông D.