Nội dung hủy án:
(i) Theo đơn khởi kiện của ông Bùi Thanh N, ông yêu cầu được thực hiện mua lại các thửa đất như văn bản thỏa thuận ngày 25/10/2017 đối với ông Dương Việt A. Văn bản cam kết thỏa thuận ngày 25/10/2017 có nội dung là hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, do không thực hiện được nội dung nên dẫn đến tranh chấp. Tòa cấp sơ thẩm thụ lý, giải quyết với tranh chấp là “Hợp đồng về quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất” là chưa chính xác, không đúng quy định của pháp luật. Tranh chấp trên phải được xác định là “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất”.
(ii) Qua thực tế trên cho thấy văn bản ngày 25/10/2017 là vô hiệu, tài sản trên lúc đó không là của bên chuyển nhượng và cũng không có cơ sở gì để cho rằng anh N sẽ được sở hữu, sử dụng tài sản đó trong tương lai, nên không thể bác yêu cầu của anh N với lý do vi phạm thời gian theo văn bản trên. Hiện tại chị Cát T đã mua lại toàn bộ tài sản trên, việc nhận chuyển nhượng của chị là hợp pháp, ngay tình. Tranh chấp còn lại giữa anh N, anh Việt A và ông L, mặc dù có yêu cầu của các đương sự nhưng Tòa cấp sơ thẩm không xem xét hậu quả giao dịch trái pháp luật nêu trên là chưa giải quyết toàn diện vụ án, quyền lợi của đương sự có liên quan chưa được đảm bảo. Cụ thể như việc san lấp mặt bằng, cải tạo sửa chữa tài sản của ông L sau khi có kết quả đấu giá…
(iii) Mặt khác tại biên bản nghị án và quyết định bản án sơ thẩm chưa phù hợp với nhau như: có sai lệch trong điều khoản áp dụng, đánh máy sai họ của Hội thẩm nhân dân. Tại biên bản nghị án có biểu quyết nội dung buộc anh N nộp tài sản đảm bảo, nhận định của bản án có nêu nhưng trong quyết định bản án lại không có.