Nội dung hủy án:
(i) Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn ông Nguyễn Thanh Ph và bà Nguyễn Thị Đ được Tòa án nhân dân thành phố Thủ D niêm yết công khai tại địa chỉ số 44/22, khu phố 2, phường Đ, thành phố Thủ D, tỉnh Bình Dương. Tuy nhiên theo Biên bản xác minh ngày 08 tháng 5 năm 2019 do TAND tỉnh Bình Dương xác minh tại Công an phường Đ thì: “Khoảng năm 2008 trở về trước tại địa chỉ số 44/22, tổ 22, khu phố 2, phường Đ, thành phố Thủ D, tỉnh Bình Dương có hộ gia đình ông Nguyễn Thanh Ph, bà Nguyễn Thị Đ sinh sống tại đây trong căn nhà tạm (vách lá), nhưng từ năm 2008, ông Ph, bà Đ đã phá bỏ căn nhà tạm này, chỉ còn lại đất trống. Sau đó, ông Ph, bà Đ bán đất cho người khác. Hiện nay, tại địa chỉ này là bãi đất trống từ năm 2008 đến nay, không ai sinh sống.
Hiện nay tại phường Đ không còn căn nhà nào địa chỉ số 44/22, tổ 22, khu phố 2, phường Đ, thành phố Thủ D, tỉnh Bình Dương do tổ 22 đã đổi thành tổ 9 từ năm 2008 đến nay”. Như vậy, tại địa chỉ mà Tòa án cấp sơ thẩm xác định là nơi bị đơn cư trú chỉ là bãi đất trống, không có nhà ở nhưng các biên bản niêm yết của Tòa án cấp sơ thẩm (bút lục 498, 537, 542, 553) lại xác định lý do không thực hiện được việc cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng là do ông Ph, bà Đ không có mặt ở nhà, không có người thân nhận thay hoặc không có người thân thích có đủ năng lực hành vi dân sự nhận thông báo thay là không phù hợp với thực tế. Theo Biên bản xác minh ngày 09 tháng 5 năm 2019 do Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xác minh tại Công an thành phố Thủ D có nội dung: “Căn cứ hồ sơ tàng thư hộ khẩu đang lưu trữ tại Công an thành phố Thủ D, tỉnh Bình Dương có thông tin như sau: Hộ ông Nguyễn Thanh Ph, sinh ngày 23/01/1975, chứng minh nhân dân số 280572115 chuyển hộ khẩu từ thị trấn Gia H, huyện Tr, tỉnh Tây Ninh đến đăng ký hộ khẩu thường trú tại số 44/22, tổ 22, ấp 2 (khu phố 2), phường Đ, thành phố Thủ D, tỉnh Bình Dương từ ngày 29/6/2007 gồm: 1, Nguyễn Thanh Ph, sinh năm 1975; 2, Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1977; 3, Nguyễn Nam Ph, sinh năm 1997; 4, Nguyễn Nam Hải Triều, sinh năm 2001. Ngày 31/7/2009, ông Ph làm thủ tục chuyển hộ khẩu cả hộ đến địa chỉ nơi chuyển đến: Số 56/12, đường tỉnh lộ 6, khu phố Gia H, thị trấn Tr, huyện Tr, tỉnh Tây Ninh đã được Công an thành phố Thủ D giải quyết”. Ông Hai (cha ông Ph) cũng đã xác định ông Ph, bà Đ đã chuyển đi đến tỉnh Tây Ninh (không rõ địa chỉ cụ thể), làm ăn và sinh sống từ sau khi bà Nguyễn Thị B chết (năm 2009) tại biên bản lấy lời khai ngày 12 tháng 9 năm 2016 (bút lục 237).
Tòa án cấp sơ thẩm không xác minh rõ ông Ph, bà Đ có chuyển đi nơi khác sinh sống như ông Hai khai báo hay không mà lại xác định địa chỉ tại phường Đ là địa chỉ cư trú cuối cùng của bị đơn và niêm yết công khai tại địa chỉ này là không đúng quy định tại khoản 2, Điều 179 của Bộ luật Tố tụng dân sự, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
(ii). Xét kháng cáo của nguyên đơn cho rằng bà B không biết chữ nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là chưa thuyết phục, xét xử chưa đúng quy định pháp luật. Xét thấy, theo nội dung các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số 376/2017/TLST-DS ngày 11/10/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Thủ D, tỉnh Bình Dương về việc yêu cầu hủy di chúc giữa nguyên đơn là ông Nguyễn Văn Th với bị đơn là ông Lê Minh thể hiện: Bà Lê Thị Hoa (em ruột bà B), bà Bùi Thị Ngọc Yến, bà Trương Thị Ch, bà Nguyễn Thị Tr, ông Huỳnh Văn D (hàng xóm bà B), ông Nguyễn Văn Đ, ông Lê Văn H (cán bộ xã Định Hòa thời điểm đó), ông Nguyễn Văn B (cháu ruột bà B) đều xác định bà B không biết chữ, không biết đọc, không biết viết. Tại biên bản lấy lời khai ngày 14 tháng 6 năm 2011 (bút lục 172, 173) ông Lê Minh (cháu bà B, người được bà B để lại di chúc) cũng xác định bà B mù chữ, không biết chữ, không biết đọc, không biết viết; về sau thì ông Minh lại xác định là bà B biết chữ. Ông Hai lúc thì xác định bà B không biết viết có thể đánh vần để đọc từ từ, lúc thì khai bà B biết chữ.
Như vậy, lời khai của các đương sự và người làm chứng mâu thuẫn nhau, ngay chính lời khai của ông Hai, ông Minh cũng không thống nhất về việc này. Tòa án cấp sơ thẩm không điều tra thu thập các chứng cứ như hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 108 QSDĐ ngày 27 tháng 5 năm 1998 cấp cho bà Nguyễn Thị B, việc đăng ký kê khai đất tại UBND xã của bà B; hồ sơ xin nhận con nuôi tại Ty Thương binh và Xã hội tỉnh Đồng Nai (bút lục 20); hồ sơ cấp giấy khai sinh cho ông Nguyễn Văn Th (bút lục 24) để thu thập các chữ ký của bà B; không tiến hành làm rõ chữ ký, chữ viết của bà B trong biên bản kiểm tra địa chính về việc điều chỉnh diện tích theo hiện trạng sử dụng đất ngày 17/7/2007 và sơ đồ trích đo khu đất ngày 23 tháng 7 năm 2007 có phải của bà B hay không và có phải cùng một người viết ra hay không. Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất có chứng thực của UBND xã (nay là phường) Định Hòa, số 492/07 quyển số 02TP/CC-SCT/HĐGD đề ngày 01/8/2007, bà B có ký tên, điểm chỉ vào hợp đồng, cho đến thời điểm xét xử sơ thẩm không có chứng cứ nào chứng minh dấu vân tay, điểm chỉ và chữ ký tên B tại hợp đồng tặng cho trên không phải của bà B để không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là không phù hợp, đánh giá chứng cứ chưa toàn diện, bởi vấn đề không thống nhất cần làm rõ là việc bà B có biết chữ hay không.
Theo quy định tại Điều 8 Nghị định số 75/2000/NĐ- CP ngày 08 tháng 12 năm 2000 của Chính phủ về công chứng, chứng thực quy định “Trong trường hợp pháp luật quy định việc công chứng, chứng thực phải có người làm chứng hoặc trong trường hợp pháp luật không quy định phải có người làm chứng, nhưng người yêu cầu công chứng, chứng thực không đọc, không nghe, không ký hoặc không điểm chỉ được, thì phải có người làm chứng.” Như vậy, trong trường hợp nếu có căn cứ xác định bà B không biết chữ thì trình tự, thủ tục của hợp đồng tặng cho nêu trên không phù hợp với quy định của pháp luật về công chứng, chứng thực tại thời điểm xác lập.
(iii). Mặt khác, theo lời khai của các đương sự thì bà B không làm chứng minh nhân dân, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không xác minh tại cơ quan có thẩm quyền cấp chứng minh nhân dân để làm rõ bà B có đăng ký chứng minh nhân dân hay không và ai đăng ký sổ hộ khẩu cho bà B để xem xét trình tự thủ tục ký kết hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất có thực hiện theo quy định hay không. Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất có chứng thực của UBND xã (nay là phường) Định Hòa, số 492/07 quyển số 02TP/CC-SCT/HĐGD đề ngày 01/8/2007 được lập thành 03 bản bên A (bà B, ông Th) giữ 01 bản chính, bên B giữ 01 bản chính, lưu tại Ủy ban nhân dân 01 bản chính nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không thu thập hợp đồng này tại Ủy ban nhân dân xã (nay là phường) Định Hòa để xem xét về thủ tục, trình tự công chứng, chứng thực hợp đồng, văn bản về bất động sản theo quy định tại Thông tư liên tịch số 04/2006/TTLT-BTPBTNMT ngày 13 tháng 6 năm 2006 hướng dẫn việc công chứng, chứng thực hợp đồng, văn bản thực hiện quyền của người sử dụng đất.
(iv). Ngoài vụ án này, Tòa án nhân dân thành phố Thủ D, tỉnh Bình Dương đã thụ lý vụ án ông Nguyễn Văn Th kiện ông Lê Minh và vụ ông Nguyễn Văn Th kiện ông Nguyễn Văn H. Vụ ông Lê Minh đã bị hủy theo Quyết định giám đốc thẩm số 487/2013/DS-GĐT ngày 14/11/2013 của Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao do chưa làm rõ được bà B có biết chữ hay không, trình tự cấp đất có đúng quy định hay không. Tòa án nhân dân thành phố Thủ D, tỉnh Bình Dương đang tạm đình chỉ giải quyết vụ án, chờ kết quả xét xử vụ án này để tiếp tục giải quyết vụ án. Tuy nhiên, do tranh chấp giữa ông Th và ông Minh có thể có một phần diện tích đất có liên quan đến đất tranh chấp giữa ông Th và ông Ph nên cần phải xem xét có cần nhập 2 vụ án này để giải quyết triệt để các vấn đề tranh chấp trong cùng một vụ án hay không.
Từ những phân tích nêu trên, xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong việc triệu tập đương sự, việc thu thập chứng cứ chứng minh chưa được thực hiện đầy đủ, đánh giá chứng cứ chưa toàn diện nên cấp phúc thẩm không thể khắc phục được. Do đó, cần hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại theo quy định tại Điều 310 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
