Nội dung hủy án:
(i) Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn bà Lê Thị D khởi kiện yêu cầu tuyên bố hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 12/9/2017 giữa ông Phan Văn C (C), bà Lê Thị D và ông Phan Văn H3 thực hiện tại Văn phòng công chứng L2 là vô hiệu. Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do UBND huyện T2 (nay là thị xã N), tỉnh Thanh Hóa cấp cho ông Phan Văn H3 ngày 27/9/2017, số giấy CK122547 thửa 155, tờ bản đồ số 12, diện tích 556m2. Quá trình giải quyết vụ án, tại biên bản ghi lời khai ngày 12/01/2021 (BL 62) bà D đề nghị giao một phần đất cho ông H3. Tòa án cấp sơ thẩm đã không lấy lời khai của nguyên đơn để làm rõ đây có phải là yêu cầu khởi kiện bổ sung của nguyên đơn không? Trong trường hợp là yêu cầu khởi kiện bổ sung thì cần yêu cầu nguyên đơn làm các thủ tục bổ sung yêu cầu khởi kiện, thông báo cho Viện kiểm sát, các đương sự khác biết về yêu cầu này để họ được trình bày ý kiến. Bản án sơ thẩm quyết định giao 271m2 đất cho ông H3 theo ý chí của bà D là vượt quá yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và phần quyền của bà D trong khối tài sản chung của vợ chồng, ảnh hưởng đến quyền lợi của những người ở hàng thừa kế thứ nhất của ông Phan Văn C.
Tòa án cấp sơ thẩm chưa thu thập tài liệu, chứng cứ tại Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai để xác định giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên ông Phan Văn H3 sau khi nhận tặng cho có thực hiện giao dịch dân sự chuyển nhượng, thế chấp, cầm cố không? Tại phiên tòa phúc thẩm ông H3 khai hiện nay Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ông đã cầm cố cho anh Lại Văn L4 (người cùng thôn) để vay tiền. Nội dung này quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm bà D và ông H3 đã trình bày nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không đưa anh L4 vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan theo quy định tại Điều 68 Bộ luật Tố tụng dân sự để thu thập chứng cứ làm rõ có việc anh H3 cầm cố Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay không.
(ii) Về nội dung: Quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn xác định có việc gia đình bàn bạc thống nhất để lại một phần đất làm nhà thờ còn lại cho Phan Văn H3 diện tích hơn 100m2. Tại biên bản kiểm tra hiện trạng nhà đất tặng cho của UBND xã H1 ngày 01/8/2017 có chữ ký của ông Phan Văn C; quá trình lập hợp đồng tặng cho ông C, bà D đã trực tiếp đến làm việc với UBND xã H1 để làm thủ tục. Bà D cho rằng bà và ông C không đọc và ký, điểm chỉ vào hợp đồng là do tưởng nhầm là giấy vay tiền ngân hàng. Ông bà chưa bao giờ làm việc với công chứng viên Nguyễn Hữu V, chưa bao giờ đến trụ sở Văn phòng công chứng L2.
Bản án sơ thẩm căn cứ vào văn bản Giấy nhượn đất (xác định là giấy mượn đất) đề ngày 09/09/2017 để hủy hợp đồng tặng cho. Văn bản này có nội dung: Tên tôi là Phan Văn H3, vợ là Lại Thị T1 con ông bà Phan Văn C, Lê Thị D có cho con một số đất trong trích lục. Thống nhất để lại cho ông bà một số đất phía đông giáp bà M, phía tây giáp đường đi kéo dài hết đất. Vậy tôi làm giấy này cam kết. Người làm giấy: H3 và chữ viết Phan Văn B, Phan Văn A, Phan Văn D1. Tiếp đến là dòng chữ: Tôi Phan Văn C 79 tuổi và vợ tôi là Lê Thị D 82 tuổi. Có cho con tôi là Phan Văn H3 số đất có trích lục đứng tên tôi và bà D. Vậy tôi viết giấy này xác nhận số đất để lại một phần trong trích lục để sau này con tôi làm nhà thờ. Mong chính quyền xác nhận nội dung trên là đúng sự thật ông Phan Văn C, bà Lê Thị D. Góc bên trên phía trái văn bản ghi ngày 09/9/2017 tức ngày 19 tháng 7 âm lịch.
Theo ông H3 văn bản này được lập năm 2017, ông không nhớ chính xác ngày tháng nhưng lập sau khi việc tặng cho đất đã hoàn thành. Đây là giấy nhượng đất, do ít học nên ông viết là nhượn đất. Tại thời điểm viết giấy có mặt ông, ông C, bà D và ông Lê Văn H7 – cán bộ địa chính xã. Ông là người viết và ký tên vào phần đầu văn bản. Còn phần chữ phía dưới, chữ ký xác nhận của ông B, ông A, ông D1 và ngày tháng không biết chữ ai, viết thời điểm nào. Nội dung: Bố mẹ và ông có thống nhất ông sẽ nhượng lại cho ông bà một phần thửa đất đã được tặng cho để sau này ông bà có nhu cầu thì về ở. Nay ông xác định, tài sản của bố mẹ ông đã chia đều cho các con, mỗi người đều có phần. Nay bố mẹ đã mất, đất bố mẹ đã tặng cho ông nên không đồng ý thực hiện theo giấy nhượng đất.
Tòa án cấp sơ thẩm chưa thu thập tài liệu, chứng cứ để làm rõ những dòng chữ trên giấy ghi ngày 09/9/2017 do ai viết, viết thời gian nào? chưa lấy lời khai của những người ký tên trên văn bản là các ông Phan Văn B, Phan Văn D1, Phan Văn A để làm rõ thời gian viết giấy, lý do? Nội dung các bên thống nhất? Chưa lấy lời khai của ông Phan Văn D1 và những người con khác của bà D, ông H3 để làm rõ có việc ông C, bà D cho ông H3 đất không? Diện tích đất tuyên bố cho là bao nhiêu? Quan điểm như thế nào về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn? Yêu cầu bổ sung của nguyên đơn.
Chưa lấy lời khai của những người làm chứng là những người trực tiếp ký tên trong biên bản xác định hiện trạng đất tặng cho cũng như trực tiếp hoàn thiện các thủ tục tặng cho quyền sử dụng đất như ông Lê Văn H7 (cán bộ địa chính xã H1), ông Trịnh Cao C1 (Trưởng thôn L), ông Đặng Duy T3 (Chủ tịch UBND xã H1) để làm rõ ý chí của ông C, bà D về hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất?
(iii) Xét thấy: Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất lập ngày 12/9/2017 tại Văn phòng công chứng L2 giữa: bên tặng cho là ông Phan Văn C và bà Lê Thị D; bên nhận tặng cho là ông Phan Văn H3 có đầy đủ chữ ký, điểm chỉ của ông C, bà D. Ông Phan Văn H3 và Văn phòng công chứng L2 đều khẳng định ông C, bà D đến Văn phòng công chứng để làm mọi thủ tục liên quan đến hợp đồng tặng cho đất ông H3 theo đúng quy định. Ông C, bà D đều là người biết đọc, biết viết. Tại thời điểm ký hợp đồng tặng cho hai ông bà có đầy đủ năng lực hành vi dân sự. Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét, đánh giá chứng cứ khách quan, toàn diện mà chỉ căn cứ vào lời trình bày của bà D cho rằng vợ chồng bà không đến Văn phòng công chứng L2 làm việc và chưa bao giờ làm việc với công chứng viên để từ đó đưa ra nhận định: Hợp đồng tặng cho QSDĐ số công chứng 2689, Quyển số 05 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 12/9/2017 do Văn phòng công chứng L2 lập là vi phạm pháp luật, gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp lợi của gia đình ông C, bà D. Mục đích và nội dung của hợp đồng tặng cho tài sản là không hợp pháp, giao dịch dân sự do lừa dối theo quy định tại Điều 122 Bộ luật Dân sự. Hợp đồng này đã vi phạm một trong các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự quy định tại Điều 117 Bộ luật Dân sự. Việc UBND huyện T2 (nay là thị xã N) căn cứ vào hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất của ông Phan Văn C (C)và bà Lê Thị D để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Phan Văn H3 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số D0914480, số vào sổ cấp GCN: 01577QSDĐ do Ủy ban nhân dân huyện T2 (nay là thị xã N) cấp ngày 01 tháng 08 năm 1994 là không đúng pháp luật. Từ đó, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị D tuyên bố hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 12/9/2017 giữa ông bà và Phan Văn H3 thực hiện tại Văn phòng công chứng L2 là vô hiệu; Hủy Giấy chứng nhận QSDĐ do UBND huyện T2 (nay là thị xã N) cấp cho Phan Văn H3 ngày 27/9/2017 diện tích 556,7m², địa chỉ phường H1, thị xã N, tỉnh Thanh Hoá là chưa có căn cứ vững chắc.
(iv) Từ những lập luận phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử thấy: Tòa án cấp sơ thẩm đã không thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ. Tại cấp phúc thẩm không thể bổ sung được. Do đó có căn cứ chấp nhận kháng cáo của người có quyền lợi liên quan là Văn phòng công chứng L2, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội, hủy toàn bộ bản án sơ thẩm để giải quyết lại vụ án theo đúng quy định của pháp luật, bảo đảm quyền lợi ích hợp pháp của các bên đương sự.