Nội dung hủy án:
(i) Để có cơ sở giải quyết yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc buộc bị đơn trả lại thửa đất 183 do nguyên đơn đứng tên quyền sử dụng thì cần đánh giá về giao dịch chuyển nhượng đất giữa các bên có liên quan và trình tự, thủ tục khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nguyên đơn, Hội đồng xét xử thấy rằng:
Theo hồ sơ địa chính được trích lục, căn cứ để UBND huyện Ô (cũ) cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà L vào năm 2003 là hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ghi tháng 11/2002 (còn ngày trên hợp đồng bị xóa sửa nên không xác định rõ) giữa bên chuyển nhượng là ông Ngô Văn D1 với bên nhận chuyển nhượng bà Trần Thị Thùy L và các giấy tờ kèm theo có liên quan. Bị đơn không thừa nhận có ký tên vào hợp đồng chuyển nhượng này và do hoàn cảnh gia đình khó khăn, không am hiểu pháp luật nên bị đơn không yêu cầu giám định chữ ký tên trên hợp đồng ở giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm. Nhưng sau đó tại phiên tòa sơ thẩm, người đại diện theo ủy quyền của bị đơn yêu cầu giám định nhưng không được cấp sơ thẩm chấp nhận.
Hợp đồng chuyển nhượng đất lập tháng 11/2002 nêu trên có ghi giá trị chuyển nhượng thửa đất 183, diện tích 7.665m2 số tiền 29.000.000đ (hai mươi chín triệu đồng) và theo lời khai của người đại diện ủy quyền của nguyên đơn thì số tiền này, nguyên đơn không thanh toán cho bị đơn mà trước đó vào năm 1997, cha của nguyên đơn là ông Trần Văn L2 có nhận chuyển nhượng 04 công đất tầm 03m (một phần thửa 183) với giá 35 chỉ vàng 24K, theo giấy viết tay “Tờ chuyển nhượng đất ruộng” ngày 24/5/1997. Đến ngày 11/8/1997, bị đơn làm giấy viết tay cầm cố tiếp cho ông L2 phần đất 2.465m2 với giá 05 chỉ vàng 24K. Đến năm 2002 bị đơn chuộc lại đất cầm cố này (2.465m2), sau đó chuyển nhượng lại cho nguyên đơn và nguyên đơn đã thanh toán đủ số vàng theo thỏa thuận. Bị đơn lập hợp đồng chuyển nhượng theo mẫu hết thửa 183 cho nguyên đơn (bao gồm 04 công đất mà bị đơn sang nhượng cho ông L2 vào năm 1997 và phần đất 2.465m2 bị đơn cầm cố nhưng đã chuộc lại rồi sang nhượng). Còn phía bị đơn không thừa nhận và cho rằng, bị đơn chỉ cầm cố cho ông L2 diện tích đất 2.465m2 với giá 05 chỉ vàng 24K theo “Tờ cố đất” lập ngày 11/8/1997, sau đó bị đơn chuộc lại đất này và ông L2 giao trả lại giấy cố đất cho bị đơn giữ đến nay. Bị đơn không thừa nhận có ký tên giao dịch chuyển nhượng đất cho ông L2 theo “Tờ chuyển nhượng đất ruộng” viết tay lập ngày 24/5/1997 mà nguyên đơn cung cấp, đồng thời cũng không thừa nhận chữ ký tên trên tờ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được lập theo mẫu (bên nhận chuyển nhượng Trần Thị Thùy L là của bị đơn.
Xét thấy, do nguyên đơn không thanh toán tiền chuyển nhượng đất 29.000.000 đồng theo hợp đồng chuyển nhượng đất nêu trên nên “Tờ chuyển nhượng đất ruộng” viết tay lập ngày 24/5/1997 có liên quan đến hợp đồng chuyển nhượng đất theo mẫu lập vào năm 2002 nhưng “Tờ chuyển nhượng đất ruộng” này không được công chứng, chứng thực hợp pháp nên không thuộc trường hợp là tình tiết, sự kiện không phải chứng minh nên nguyên đơn cung cấp tài liệu này thì phải có nghĩa vụ chứng minh khi bị đơn không thừa nhận. Để từ đó có cơ sở xác định bị đơn có nhận 35 chỉ vàng 24K của ông L2 để chuyển nhượng 04 công đất ruộng tầm 03m rồi sau đó ông L2 để cho bà L đứng tên hợp đồng nhận chuyển nhượng đất và được cấp giấy chứng nhận như lời trình bày của nguyên đơn hay không, tuy nhiên vấn đề này chưa được cấp sơ thẩm làm rõ.
(ii) Về trình tự thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nguyên đơn, Hội đồng xét xử nhận thấy rằng:
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ghi tên bên chuyển nhượng là ông Ngô Văn D1 với bên nhận chuyển nhượng là bà Trần Thị Thùy L, có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã T tháng 11/2002 (còn ngày ghi trên hợp đồng bị xóa sửa nên không xác định rõ), theo nội dung xác nhận của cơ quan địa chính huyện đề nghị Ủy ban huyện cho phép chuyển nhượng thì đến ngày 16/01/2003 Ủy ban nhân dân huyện Ô (cũ) mới xác nhận nội dung này (cho phép chuyển nhượng), nhưng trước đó vào ngày 06/01/2003 thì bà L đã được người có thẩm quyền ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất 00020.QSDĐ/72,73/HĐ.2022. Như vậy, việc cấp giấy đất cho nguyên đơn là trước thời điểm hoàn thành hồ sơ theo trình tự thủ tục là không phù hợp nhưng vấn đề này cũng chưa được cấp sơ thẩm thu thập chứng cứ để làm rõ.
Biên bản họp gia đình ngày 02/11/2002, ghi tên thành viên chung hộ gia đình bị đơn gồm bà Trang Thị Thu N1 (vợ ông D1) và bà Ngô Thị Tuyết L3 (con ông D1) có nội dung những người này bàn bạc thống nhất chuyển nhượng đất cho bà L. Tuy nhiên, bà N1 và bà L3 không thừa nhận cho rằng, các bà không có ký tên vào văn bản này, không biết văn bản do ai lập và được lập ở nơi nào, vì phần cuối của văn bản có xác nhận của T2 ấp “Trường K1”, trong khi đất tranh chấp mà gia đình bị đơn đang ở, sử dụng thuộc ấp “Trường Khương B” của xã T. Việc xác nhận này của trường K1 là không phù hợp về địa bàn công tác của cán bộ được phân công phụ trách nên không bảo đảm khách quan nhưng cũng chưa được cấp sơ thẩm xác minh làm rõ.
Khi lập thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà L, cơ quan chức năng cũng không thu hồi lại bản gốc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông D1 đứng tên số 000215, ngày 11/11/1993, hiện tại ông D1 vẫn còn lưu giữ giấy đất này là không phù hợp (vì cùng một thửa đất nhưng lại có 02 giấy đất có giá trị đang tồn tại), do đó cũng cần phải thu thập chứng cứ để làm rõ vấn đề này.
(iii) Từ những vấn đề phân tích nêu trên nhận thấy, với những tài liệu chứng cứ mà cấp sơ thẩm thu thập có trong hồ sơ vụ án là chưa đủ cơ sở để xác định nguyên đơn và ông L2 (cha nguyên đơn) đã giao cho bị đơn bao nhiêu vàng (hoặc tiền) để nhận chuyển nhượng thửa đất 183; cần phải thu thập chứng cứ làm rõ vấn đề có hay không việc bị đơn và ông L2 ký kết giấy viết tay lập ngày 24/5/1997 với nội dung bị đơn sang nhượng cho ông L2 04 công đất tầm 03m với giá 35 chỉ vàng 24K trước thời điểm lập hồ sơ chuyển quyền sử dụng đất cho bà L đứng tên vào năm 2002; cần trưng cầu giám định chữ ký trên tờ hợp đồng chuyển nhượng đất (lập theo mẫu) có phải của bị đơn hay không. Cấp sơ thẩm căn cứ vào hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nguyên đơn và giấy đất mà nguyên đơn được cấp để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, trong khi hồ sơ cấp giấy có nhiều sai sót về thủ tục như nêu trên là chưa có căn cứ vững chắc.
Do cấp sơ thẩm thu thập chứng cứ không đầy đủ nhưng cấp phúc thẩm không thể khắc phục, bổ sung tại phiên tòa được nên phải hủy án sơ thẩm để chuyển hồ sơ vụ án cho cấp sơ thẩm giải quyết lại theo đúng quy định pháp luật đối với yêu cầu của nguyên đơn đòi bị đơn trả lại thửa đất 183.