Bản án dân sự phúc thẩm số 28/2023/DS-PT ngày 08/6/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình về việc tranh chấp yêu cầu huỷ hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và yêu cầu chia thừa kế

Nội dung hủy án:

(i). Trong đơn khởi kiện và các tài liệu gửi Tòa án ở giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, bà H cung cấp cho Tòa án nơi cư trú của ông K lần lượt là Cụm 2, Tổ dân phố 9, phường N, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình và xã T, huyện Q, tỉnh Quảng Bình. Tuy nhiên qua xác minh của Tòa án cấp sơ thẩm, thì tại địa chỉ Cụm 2, Tổ dân phố 9, phường N, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình, ông K không cư trú ở đây; còn tại địa chỉ xã T, huyện Q, tỉnh Quảng Bình, thì ông K chỉ có đăng ký thường trú, nhưng thực tế không ở đây từ trước khi bà H khởi kiện vụ án. Tại Công văn số 574/CAH ngày 03/3/2022 về phúc đáp Công văn số 241/2022/CVTA ngày 21/02/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới (bút lục số 171), Công an huyện Q, tỉnh Quảng Bình xác định ông Phạm Ngọc K đang tạm trú tại địa chỉ 84/41/14, khu phố 2, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương. Tuy vậy các văn bản mà Tòa án cấp sơ thẩm gửi cho ông K theo địa chỉ này đều bị trả lại, vì không có người nhận. Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng ông K đã được tống đạt các văn bản tố tụng hợp lệ, nhưng vắng mặt tại phiên tòa, thể hiện việc cố tình giấu địa chỉ, nên đã xét xử vụ án với sự vắng mặt của bị đơn theo quy định tại điểm e khoản 1 Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tại khoản 2 Điều 6 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn một số quy định tại khoản 1 và 3 Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự số 92/2015/QH13 về trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án quy định:

“2. Trường hợp sau khi thụ lý vụ án, Tòa án không tống đạt được Thông báo về việc thụ lý vụ án do bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không còn cư trú, làm việc hoặc không có trụ sở tại địa chỉ mà Nguyên đơn cung cấp thì Tòa án giải quyết như sau:

a) Trường hợp trong đơn khởi kiện, người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo địa chỉ được ghi trong giao dịch, hợp đồng bằng văn bản thì được coi là “đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở”. Trường hợp người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thay đổi nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở gắn với việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong giao dịch, hợp đồng mà không thông báo cho người khởi kiện biết về nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở mới theo quy định tại khoản 3 Điều 40, điểm b khoản 2 Điều 277 Bộ luật dân sự năm 2015 thì được coi là cố tình giấu địa chỉ và Tòa án tiếp tục giải quyết theo thủ tục chung mà không đình chỉ việc giải quyết vụ án vì lý do không tống đạt được cho bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;

b) Trường hợp trong đơn khởi kiện, người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi có trụ sở của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cơ quan, tổ chức theo hướng dẫn tại điểm d khoản 1 Điều 5 Nghị quyết này thì được coi là “đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ trụ sở”. Trường hợp cơ quan, tổ chức thay đổi trụ sở mà không công bố công khai theo quy định tại khoản 1 Điều 79 Bộ luật dân sự năm 2015 thì được coi là cố tình giấu địa chỉ và Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục chung mà không đình chỉ việc giải quyết vụ án vì lý do không tống đạt được cho bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;

c) Trường hợp không thuộc điểm a, b khoản 2 Điều này mà Tòa án đã yêu cầu nguyên đơn cung cấp địa chỉ mới của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng nguyên đơn không cung cấp được thì có quyền yêu cầu Tòa án thu thập, xác minh địa chỉ mới của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quy định của pháp luật. Trường hợp Tòa án không xác định được địa chỉ mới của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì Tòa án đình chỉ việc giải quyết vụ án theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 217 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, trừ trường hợp hướng dẫn tại khoản 3 Điều này.”

Khoản 3 Điều 6 Nghị quyết trên là quy định đối với các trường hợp bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đang ở nước ngoài hoặc là công dân nước ngoài.

Trong vụ án này giữa bà H và ông K không có bất kỳ giao dịch, hợp đồng nào, do đó với quy định trên, việc Tòa án cấp sơ thẩm xác định ông Phạm Ngọc K cố tình giấu địa chỉ để xét xử vắng mặt ông K là không đúng. Trong trường hợp này cần đình chỉ vụ án theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 217 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

(ii). Trong trường hợp sau khi thụ lý vụ án, Tòa án không thể liên lạc được với Bị đơn, theo các quy định đã trích dẫn trên thì Tòa án phải yêu cầu Nguyên đơn cung cấp địa chỉ mới của Bị đơn để Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng cho Bị đơn. Nếu nguyên đơn không cung cấp được, có yêu cầu Tòa án thu thập, xác minh và trong trường hợp Tòa án cũng không xác minh được thì Tòa án cấp sơ thẩm phải đình chỉ giải quyết vụ án. Nhưng do Tòa án cấp sơ thẩm đã không thực hiện đúng quy định pháp luật này, nên Tòa án cấp phúc thẩm cũng không thể triệu tập hợp lệ Bị đơn được (Vì Tòa án cấp sơ thẩm đã không yêu cầu Nguyên đơn cung cấp địa chỉ mới của Bị đơn). Do đó việc Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay không phải là căn cứ để hoãn phiên tòa theo quy định tại khoản 2 Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử phúc thẩm xét xử vụ án với sự vắng mặt của Bị đơn.

(iii). Trong vụ án này, Nguyên đơn làm đơn khởi kiện, trong đó có nội dung yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa ông Phạm Văn M và ông Phạm Ngọc K vô hiệu, yêu cầu chia thừa kế đối với thửa đất số 198 và tài sản trên đất. Các yêu cầu trên cũng đồng nghĩa với việc yêu cầu Tòa án không công nhận giá trị pháp lý của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất số 183, tờ bản đồ số 19 tại Tổ dân phố 9, phường N, thành phố Đồng Hới giữa ông Phạm Ngọc K và bà Trần Thị Vân A. Đây là nội dung dẫu bà Trần Thị Vân A có yêu cầu hay không yêu cầu thì Tòa án vẫn phải giải quyết. Do đó ý kiến của bà Trần Thị Vân A yêu cầu Tòa án công nhận giá trị pháp lý của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nói trên không phải là yêu cầu độc lập, mà bà A là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, tham gia tố tụng với bên Bị đơn. Vì vậy việc Tòa án cấp sơ thẩm xác định bà Trần Thị Vân A là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập là không đúng.

(iv). Điều 311 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định: “Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án nếu trong quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm, vụ án thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 217, điểm b khoản 1 Điều 299 của Bộ luật này”. Do đó cần hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 03/2023/DS-ST, ngày 13/2/2023 của Toà án nhân dân thành phố Đồng Hới và đình chỉ giải quyết vụ án.

Bài viết liên quan

Góp ý