Nội dung hủy án:
Tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm, nguyên đơn và bị đơn xác định: Trước khi các bên ký Hợp đồng thi công xây dựng ngày 16/4/2009, ông D có yêu cầu ông P ký Hợp đồng thi công xây dựng (phần nhân công) số 08/HĐ-09 ngày 16/2/2009 với Xí nghiệp Đ.
Nguyên đơn và bị đơn thống nhất số tiền ông P thanh toán cho ông D là 813.700.000 đồng, bao gồm: Thanh toán trực tiếp cho ông D 700.000.000 đồng; Thanh toán cho 20.000.000 đồng cho Xí nghiệp Đ ngày 1/2009. Sau này khi thanh lý hợp đồng thì Xí nghiệp Đ đã hoàn trả cho ông D ngày 29/01/2011; Thanh toán cho ông Cương 93.700.000 đồng (từ ngày 19/9/2009 đến ngày 21/11/2009).
Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện nguyên đơn không chấp nhận số tiền 110.000.000 đồng, bao gồm: 50.000.000 đồng (ông P thanh toán cho ông Cương vào các ngày 28/8/2009, 05/9/2009 và ngày 13/9/2009) và 60.000.000 đồng (ông P thanh toán cho ông Hoan vào ngày 29/11/2009 và ngày 5/12/2009) là số tiền thanh toán của Hợp đồng thi công xây dựng ngày 16/01/2009 vì ông D không ủy quyền cho ông Cương, ông Hoan nhận tiền.
Xét, để thực hiện Hợp đồng thi công xây dựng (phần nhân công) số 08/HĐ- 09 ngày 16/2/2009, thì Xí nghiệp Đ đã có Quyết định số 42/QĐ-TC ngày 20/02/2009 (Bút lục số 50) trong đó quy định:
Điều 1: Nay phân công đồng chí Đinh Quốc Khánh D - kỹ sư xây dựng.....
Phụ trách chung công trình...
Điều 2: Nay phân công đồng chí Trịnh Duy Cương – cán sự xây dựng...... Sinh ngày 8/4/1975, CMND số 288988165 cấp ngày 25/10/2006 tại Công an tỉnh Bình Dương
Trực tiếp cung cấp vật tư thiết bị ....
Như vậy theo nội dung Hợp đồng thi công xây dựng (phần nhân công) số 08/HĐ-09 ngày 16/2/2009 thì ông D và ông Cương là nhân viên của Xí nghiệp Đ và chịu sự quản lý của Xí nghiệp Đ. Như vậy việc cấp sơ thẩm chưa xác minh địa chỉ của ông Cương thông qua Xí nghiệp xây lắp số 2 – Công ty Bạch Đằng mà đã nhận định: Do nguyên đơn không biết địa chỉ cư trú trước đây cũng như hiện nay của ông Cương nên không thể triệu tập ông Cương tham gia tố tụng, là chưa thực hiện đầy đủ việc thu thập chứng cứ và chứng minh theo quy định tại Chương VII Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự mà tại phiên tòa phúc thẩm không thể thực hiện bổ sung được.
Do đó, yêu cầu kháng cáo của ông Trương Văn P là có căn cứ để chấp nhận.
Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về nội dung vụ kiện là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Trương Văn P, hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 439/2018/DS-ST ngày 28/6/2018 và Quyết định sửa chữa, bổ sung bản án sơ thẩm số 20/2018/QĐ- SCBSBA ngày 9/7/2018 của Tòa án nhân dân quận T, chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân quận T giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.