1. Giải thích từ ngữ
Vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính được hiểu là hành vi mà một người không có ý định gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe cho người khác nhưng do sự thiếu cẩn trọng, không tuân thủ quy tắc an toàn hoặc không dự đoán trước được hậu quả của hành động mà gây ra thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác mà nguyên nhân xuất phát từ việc các nguyên tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính bị xâm phạm, không được nghiêm chỉnh tuân thủ.
2. Tội danh
“Điều 139. Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính
1. Người nào vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ từ 02 năm đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đối với 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên.
3. Phạm tội đối với 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm.
4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
3. Cấu thành tội phạm
3.1. Khách thể của tội phạm
Tội phạm này xâm phạm trực tiếp đến sức khỏe của con người được bảo vệ theo quy định của pháp luật hình sự, đồng thời xâm phạm quy tắc nghề nghiệp, quy tắc hành chính đã được ban hành.
3.2. Mặt khách quan của tội phạm
Hành vi khách quan của tội phạm được thể hiện thông qua việc vi phạm các quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính. Vi phạm quy tắc nghề nghiệp xảy ra khi một cá nhân không tuân thủ các quy định cụ thể trong phạm vi của một ngành nghề hoặc lĩnh vực nào đó. Những quy tắc này được thiết lập bởi Nhà nước hoặc các Bộ, ngành liên quan, nhằm đảm bảo hoạt động trong lĩnh vực đó diễn ra an toàn, đúng quy trình.
Ví dụ: trong ngành y tế, các quy tắc điều trị tại bệnh viện phải được tuân thủ nghiêm ngặt để đảm bảo an toàn cho bệnh nhân; trong ngành lâm nghiệp, quy tắc khai thác gỗ trong rừng phải được tuân theo để bảo vệ tài nguyên rừng; trong lĩnh vực điện lực, quy tắc an toàn khi lắp đặt hệ thống điện phải được thực hiện cẩn thận để tránh tai nạn điện giật.
Bên cạnh đó, vi phạm quy tắc hành chính cũng là một dạng hành vi khách quan của tội phạm. Những quy tắc hành chính này được quy định bởi Luật Hành chính hoặc do các cơ quan hành chính có thẩm quyền ban hành. Các quy tắc này có thể được thiết lập bởi Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, hoặc các ngành ở cấp trung ương.
Ngoài ra, ở cấp địa phương, các cơ quan hành chính địa phương hoặc một số đơn vị sản xuất cũng có thể ban hành các quy tắc hành chính để điều chỉnh các hoạt động cụ thể trong phạm vi quản lý của họ. Việc tuân thủ những quy tắc này là bắt buộc để đảm bảo an toàn, trật tự và hiệu quả trong quản lý nhà nước và sản xuất kinh doanh.
Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính là trường hợp tăng nặng của tội vô ý gây thương tích hay gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nên cần phải làm rõ quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính là gì để có cơ sở kết tội.
Người phạm tội thực hiện các hành vi trực tiếp gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác. Mức độ thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác phải từ 31% trở lên mới phạm tội. Nếu mức độ thương tật từ 31% trở xuống thì không phạm tội, chỉ bị xử lý hành chính, giải quyết bồi thường dân sự.
3.3. Mặt chủ quan của tội phạm
Tội phạm được thực hiện do lỗi vô ý được quy định tại Điều 11 Bộ luật Hình sự như sau:
“Điều 11. Vô ý phạm tội
Vô ý phạm tội là phạm tội trong những trường hợp sau đây:
1. Người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được;
2. Người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.”
3.4. Chủ thể của tội phạm
Người phạm tội có thể là bất kì ai (công dân Việt Nam, người nước ngoài, người không quốc tịch); từ đủ 16 tuổi trở lên và có năng lực trách nhiệm hình sự (theo Điều 12 Bộ luật Hình sự) và phải là người đang thực hiện công tác theo nghề nghiệp, chuyên môn của mình hoặc các hoạt động hành chính.
Năng lực trách nhiệm hình sự bao gồm năng lực nhận thức và năng lực làm chủ hành vi. Thiếu một trong hai năng lực này, người đó bị coi là không có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc bị hạn chế năng lực chịu trách nhiệm hình sự và được loại trừ trách nhiệm hình sự theo Điều 21 Bộ luật Hình sự.
Trân trọng./.