1. Giải thích từ ngữ
Chiếm đoạt người dưới 16 tuổi được hiểu là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác chiếm giữ hoặc giao cho người khác chiếm giữ người dưới 16 tuổi.
2. Tội danh
“Điều 153. Tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi
1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác chiếm giữ hoặc giao cho người khác chiếm giữ người dưới 16 tuổi, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:
a) Có tổ chức;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn, nghề nghiệp;
c) Đối với người mà mình có trách nhiệm chăm sóc, nuôi dưỡng;
d) Đối với từ 02 người đến 05 người;
đ) Phạm tội 02 lần trở lên;
e) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm:
a) Có tính chất chuyên nghiệp;
b) Đối với 06 người trở lên;
c) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
d) Làm nạn nhân chết;
đ) Tái phạm nguy hiểm.
4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
3. Cấu thành tội phạm
3.1. Khách thể của tội phạm
Tội phạm xâm phạm đến thân thể, nhân phẩm, danh dự của người dưới 16 tuổi. Như vậy, khách thể của tội phạm là quyền được Nhà nước bảo hộ về thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của người dưới 16 tuổi và tình hình ổn định của toàn xã hội.
3.2. Mặt khách quan của tội phạm
Mặt khách quan của Tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi được mô tả tại Điều 153 Bộ luật Hình sự là các hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác chiếm giữ hoặc giao cho người khác chiếm giữ người dưới 16 tuổi, cụ thể:
- Thứ nhất, hành vi dùng vũ lực:
+ Người phạm tội dùng vũ lực nhằm chiếm giữ hoặc giao cho người khác chiếm giữ người dưới 16 tuổi như: giữ chân tay, bịt mồm, đánh đấm, trói,… người bị hại.
+ Những hành vi này chủ yếu làm tê liệt sự kháng cự của người bị hại để người phạm tội thực hiện được việc chiếm giữ người dưới 16 tuổi.
- Thứ hai, hành vi đe doạ dùng vũ lực:
+ Người phạm tội dùng lời nói hoặc hành động uy hiếp tinh thần của người khác, làm cho người bị đe dọa sợ hãi như: doạ giết, dọa đánh, dọa bắn… làm cho người bị hại sợ hãi phải để cho người phạm tội chiếm giữ mình hoặc giao cho người khác chiếm giữ mình.
+ Người phạm tội có thể đe dọa dùng vũ lực với người thân thích, người mà nạn nhân quan tâm như đe dọa sẽ giết cha mẹ của nạn nhân để khống chế, chiếm giữ hoặc giao cho người khác chiếm giữ nạn nhân.
- Thứ ba, hành vi dùng thủ đoạn khác: Theo Nghị quyết số 02/2019/NQ-HĐTP, có thể hiệu thủ đoạn khác nhằm chiếm giữ hoặc giao cho người khác chiếm giữ người dưới 16 tuổi là các thủ đoạn như bắt cóc, lừa gạt, lợi dụng tình trạng khó khăn của nạn nhân,… để chiếm giữ hoặc giao cho người khác chiếm giữ người dưới 16 tuổi.
Lưu ý: Chỉ cần xác định người bị hại là người dưới 16 tuổi và người phạm tội đã thực hiện hành vi chiếm đoạt người bị hại thì mặc nhiên cấu thành tội phạm này (tội phạm hoàn thành).
3.3. Mặt chủ quan của tội phạm
Chủ thể thực hiện tội phạm với lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội hoàn toàn nhận thức được hành vi của mình xâm phạm đến quyền tự do của nạn nhân nhưng mong muốn hậu quả đó xảy ra, muốn chiếm giữ nạn nhân một cách bất hợp pháp.
Động cơ phạm tội và mục đích phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc cấu thành tội phạm nhưng mục đích phạm tội ở đây phải nhằm chiếm giữ nạn nhân. Nếu việc chiếm đoạt nạn nhân nhằm mục đích khác thì sẽ không cấu thành tội phạm này. Ví dụ trường hợp chiếm đoạt người dưới 16 tuổi, chiếm giữ họ để tống tiền gia đình nạn nhân sẽ cấu thành Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản theo Điều 169 Bộ luật Hình sự.
3.4. Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi là bất kì ai có năng lực trách nhiệm hình sự từ 16 tuổi trở lên.
- Thứ nhất, chủ thể của tội phạm có thể là bất kỳ ai, có thể thực hiện hành vi phạm tội một mình nhưng cũng có thể là phạm tội có tổ chức. Các đồng phạm có thể cùng thực hiện hành vi chiếm đoạt người dưới 16 tuổi (cùng là người thực hành) nhưng cũng có thể do 1 người thực hành còn các đồng phạm còn lại giữ vai trò tổ chức, xúi giục hoặc giúp sức.
- Thứ hai, theo khoản 1 Điều 16 Bộ luật Hình sự, người từ đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm về mọi loại tội phạm, khoản 2 Điều này quy định một số tội phạm mà người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng. Khoản 2 Điều 16 đã liệt kê các tội phạm mà người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự nhưng không bao gồm tội phạm chiếm đoạt người dưới 16 tuổi. Do vậy, độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự đối với tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi là người từ đủ 16 tuổi.
- Thứ ba, chủ thể của tội phạm phải là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự bao gồm năng lực nhận thức và năng lực làm chủ hành vi của mình.
Trân trọng./.