1. Giải thích từ ngữ
Vi phạm quy định về trực ban, trực chiến, trực chỉ huy được hiểu là hành vi của người có trách nhiệm trong quân đội không tuân thủ hoặc thực hiện không đúng các quy định về việc trực ban, trực chiến hoặc trực chỉ huy.
2. Tội danh
“Điều 409. Tội vi phạm quy định về trực ban, trực chiến, trực chỉ huy
1. Người nào không chấp hành nghiêm chỉnh chế độ trực ban, trực chiến, trực chỉ huy gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 05 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:
a) Trong chiến đấu;
b) Trong khu vực có chiến sự;
c) Trong khi thực hiện nhiệm vụ cứu hộ, cứu nạn;
d) Trong tình trạng khẩn cấp;
đ) Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.”
3. Cấu thành tội phạm
3.1. Khách thể của tội phạm
Khách thể của tội vi phạm quy định về trực ban, trực chiến, trực chỉ huy là trật tự và kỷ luật quân đội, đặc biệt là sự an toàn và khả năng sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang. Hành vi vi phạm ảnh hưởng trực tiếp đến việc bảo đảm an ninh, an toàn cho tổ chức quân đội, làm suy yếu khả năng phòng thủ và an ninh quốc gia.
3.2. Mặt khách quan của tội phạm
Hành vi vi phạm của tội phạm này là hành vi không tuân thủ hoặc thực hiện sai các quy định về trực ban, trực chiến, trực chỉ huy. Cụ thể, hành vi có thể bao gồm:
- Không có mặt tại vị trí trực: Người được giao nhiệm vụ trực nhưng không có mặt đúng thời gian hoặc rời khỏi vị trí trực khi chưa được phép.
- Bỏ nhiệm vụ: Người đang thực hiện nhiệm vụ trực nhưng tự ý bỏ nhiệm vụ, không hoàn thành công việc được giao.
- Thực hiện nhiệm vụ không đúng cách: Không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các quy trình, quy định hoặc mệnh lệnh khi đang trực ban, trực chiến, trực chỉ huy, dẫn đến việc không bảo đảm an ninh, an toàn.
- Chuyển giao nhiệm vụ không đúng quy định: Giao lại nhiệm vụ cho người khác mà không tuân thủ quy trình chuyển giao hoặc không thông báo cho cấp trên.
Hậu quả có thể gây ra các thiệt hại về tính mạng, sức khỏe của quân nhân hoặc các cá nhân liên quan, thiệt hại về tài sản của quân đội hoặc nhà nước. Ngoài ra, còn có thể gây suy giảm khả năng sẵn sàng chiến đấu, mất an ninh trật tự tại đơn vị, gây ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của quân đội và có thể dẫn đến những rủi ro lớn hơn như mất mát thông tin quan trọng, thậm chí gây hại cho an ninh quốc gia.
Hậu quả nghiêm trọng xảy ra là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành của tội phạm. Hậu quả này có thể là thiệt hại về vật chất (về tính mạng, sức khoẻ, về tài sản) hoặc thiệt hại phi vật chất.
3.3. Mặt chủ quan của tội phạm
Tội phạm này được thực hiện do lỗi vô ý, có thể là vô ý do quá tự tin hoặc vô ý do cẩu thả. Theo Điều 11 Bộ luật Hình sự, vô ý phạm tội xảy ra trong hai trường hợp:
- Vô ý do quá tự tin: Người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được. Cụ thể, trong trường hợp này, người phạm tội không chấp hành nghiêm chỉnh chế độ trực chiến, trực chỉ huy, trực ban, bảo vệ nhưng chủ quan nghĩ rằng hậu quả sẽ không xảy ra hoặc có thể kiểm soát được.
- Vô ý do cẩu thả: Người phạm tội không nhận ra hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng, mặc dù phải và có thể nhận thấy trước hậu quả đó. Trong trường hợp này, người phạm tội không tuân thủ chế độ trực chiến, trực chỉ huy, trực ban, bảo vệ mà không lường trước được hậu quả nghiêm trọng từ hành vi của mình, mặc dù lẽ ra phải nhận thức được điều đó.
3.4. Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biệt. Chỉ những người được quy định tại Điều 392 Bộ luật Hình sự mới có thể thực hiện tội phạm, bao gồm:
- Quân nhân tại ngũ, công nhân, viên chức quốc phòng.
- Quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện.
- Dân quân, tự vệ trong thời gian phối thuộc với quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu.
- Công dân được trưng tập vào phục vụ trong quân đội.
Ngoài ra, người phạm tội phải đáp ứng đủ điều kiện về tuổi chịu trách nhiệm hình sự, chủ thể của tội vi phạm quy định về trực ban, trực chiến, trực chỉ huy là người từ đủ 16 tuổi trở lên và có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự.
Trân trọng./.