TỘI LÀM MẤT TÀI LIỆU BÍ MẬT CÔNG TÁC QUÂN SỰ

(Theo Điều 407 Bộ luật Hình sự năm 2015)

1. Giải thích từ ngữ

Làm mất tài liệu bí mật công tác quân sự được hiểu là hành vi của người có trách nhiệm bảo quản và bảo vệ tài liệu bí mật quân sự nhưng đã không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ này, dẫn đến việc tài liệu bị thất lạc hoặc không còn trong tầm kiểm soát.

2. Tội danh

Điều 407. Tội làm mất tài liệu bí mật công tác quân sự

1. Người nào làm mất tài liệu bí mật công tác quân sự, nếu không thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 338 và Điều 362 của Bộ luật này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Là chỉ huy hoặc sỹ quan;

b) Trong khu vực có chiến sự;

c) Trong chiến đấu;

d) Gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.

3. Cấu thành tội phạm

3.1. Khách thể của tội phạm

Khách thể của tội làm mất tài liệu bí mật công tác quân sự là an ninh quốc phòng, trật tự công cộng và các lợi ích quan trọng của quốc gia liên quan đến lĩnh vực quân sự. Hành vi làm mất tài liệu bí mật công tác quân sự xâm phạm đến các thông tin, tài liệu quan trọng của quốc gia, có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng phòng thủ hoặc an ninh quốc gia.

3.2. Mặt khách quan của tội phạm

Hành vi làm mất tài liệu bí mật công tác quân sự xảy ra khi người phạm tội không thực hiện đúng quy trình hoặc không có sự cẩn trọng cần thiết trong việc bảo quản các tài liệu này. Những hành vi cụ thể có thể bao gồm:

  • Sơ suất trong bảo quản: Người phạm tội có thể để tài liệu ở nơi không an toàn, không khóa cẩn thận hoặc không áp dụng các biện pháp bảo mật phù hợp, dẫn đến việc tài liệu bị thất lạc hoặc mất mát.
  • Chuyển giao sai quy trình: Người phạm tội có thể giao tài liệu cho người không có thẩm quyền hoặc thực hiện quy trình chuyển giao tài liệu không đúng cách, dẫn đến việc tài liệu bị mất.
  • Bảo quản tài liệu sai cách: Ví dụ, người phạm tội có thể bảo quản tài liệu tại nơi dễ bị mất, dễ bị đánh cắp hoặc không có sự giám sát cần thiết, dẫn đến việc tài liệu bị mất mà người phạm tội không nhận ra.

Hậu quả của hành vi này là việc tài liệu bí mật quân sự bị mất, điều này có thể gây ra những thiệt hại nghiêm trọng, bao gồm:

  • Mất đi thông tin quan trọng: Khi tài liệu quân sự bị mất, thông tin quan trọng liên quan đến chiến lược, kế hoạch quân sự hoặc các bí mật khác có thể rơi vào tay kẻ xấu hoặc bị thất lạc, ảnh hưởng đến an ninh quốc gia.
  • Gây thiệt hại cho quốc phòng: Nếu tài liệu bị mất chứa đựng các thông tin về kế hoạch tác chiến, thông tin này có thể bị kẻ thù khai thác, dẫn đến những thiệt hại về mặt quân sự hoặc làm suy yếu khả năng phòng thủ của quốc gia.
  • Ảnh hưởng đến các hoạt động quân sự: Việc mất tài liệu có thể làm gián đoạn hoặc ảnh hưởng nghiêm trọng đến các hoạt động quân sự, đặc biệt nếu tài liệu liên quan đến kế hoạch tác chiến hoặc thông tin nhạy cảm.

3.3. Mặt chủ quan của tội phạm

Lỗi trong tội làm mất tài liệu bí mật công tác quân sự là lỗi vô ý, bao gồm hai loại:

  • Vô ý do cẩu thả: Người phạm tội không nhận thức được hậu quả của việc mình không cẩn trọng trong việc bảo quản tài liệu, mặc dù lẽ ra họ phải thấy trước và có thể ngăn chặn hậu quả đó.
  • Vô ý do quá tự tin: Người phạm tội đã thấy trước khả năng tài liệu có thể bị mất nhưng lại tự tin rằng điều đó sẽ không xảy ra hoặc có thể tránh được, dẫn đến việc mất tài liệu.

Động cơ của người phạm tội trong trường hợp này thường là không rõ ràng hoặc xuất phát từ sự thiếu trách nhiệm trong công việc, thay vì có ý định làm mất tài liệu. Động cơ có thể bao gồm:

  • Thiếu trách nhiệm: Người phạm tội không chú trọng đúng mức đến việc bảo quản tài liệu bí mật, dẫn đến sơ suất trong quá trình bảo quản.
  • Thiếu nhận thức: Người phạm tội có thể không nhận thức được tầm quan trọng của tài liệu mình đang quản lý hoặc coi nhẹ việc bảo vệ thông tin bí mật.

Người phạm tội không có mục đích cố ý làm mất tài liệu bí mật. Thay vào đó, mục đích của họ có thể đơn giản là hoàn thành công việc hàng ngày mà không nhận thức được những hậu quả nghiêm trọng của hành vi thiếu cẩn trọng.

3.4. Chủ thể của tội phạm

Chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biệt. Chỉ những người được quy định tại Điều 392 Bộ luật Hình sự mới có thể thực hiện tội phạm.

Điều 392. Những người phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân

1. Quân nhân tại ngũ, công nhân, viên chức quốc phòng.

2. Quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện.

3. Dân quân, tự vệ trong thời gian phối thuộc với quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu.

4. Công dân được trưng tập vào phục vụ trong quân đội.”

Ngoài ra, người phạm tội phải đáp ứng đủ điều kiện về tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự. Theo quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự, chủ thể của tội làm mất tài liệu bí mật công tác quân sự là người từ đủ 16 tuổi trở lên.

Trân trọng./.

Góp ý