1. Giải thích từ ngữ
Vi phạm quy định về bảo vệ được hiểu là hành vi không chấp hành quy định về tuần tra, canh gác, áp tải, hộ tống mà gây ra hậu quả như làm người được bảo vệ, hộ tống bị tổn thương cơ thể, bị chết; làm hư hỏng hoặc làm mất phương tiện kỹ thuật, thiết bị quân sự; gây thiệt hại về tài sản,…
2. Tội danh
“Điều 410. Tội vi phạm quy định về bảo vệ
1. Người nào không chấp hành quy định về tuần tra, canh gác, áp tải, hộ tống thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 05 năm:
a) Làm người được bảo vệ, hộ tống bị tổn thương cơ thể;
b) Làm hư hỏng phương tiện kỹ thuật, thiết bị quân sự;
c) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
d) Gây hậu quả nghiêm trọng khác.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
a) Làm người được bảo vệ, hộ tống chết;
b) Làm mất phương tiện kỹ thuật, thiết bị quân sự;
c) Trong chiến đấu;
d) Trong khu vực có chiến sự;
đ) Lôi kéo người khác phạm tội;
e) Gây thiệt hại về tài sản 500.000.000 đồng trở lên;
g) Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng khác.”
3. Cấu thành tội phạm
3.1. Khách thể của tội phạm
Tội phạm vi phạm các quy định về bảo vệ trực tiếp xâm phạm chế độ tuần tra, canh gác, áp tải và hộ tống trong quân đội. Như vậy, khách thể của tội phạm là chế độ tuần tra, canh gác, áp tải và hộ tống trong quân đội.
3.2. Mặt khách quan của tội phạm
Hành vi khách quan của tội này bao gồm việc không tuân thủ hoặc thực hiện không đúng các quy định về bảo vệ. Cụ thể, có thể là:
- Thiếu trách nhiệm trong việc bảo vệ: Không tuân thủ các quy định, quy trình bảo vệ như bỏ nhiệm vụ, không giám sát chặt chẽ đối tượng cần bảo vệ hoặc không kiểm tra, kiểm soát an ninh theo yêu cầu.
- Lơ là trong việc bảo vệ: Không thực hiện hoặc thực hiện sai các biện pháp bảo vệ cần thiết, dẫn đến việc không bảo đảm an toàn cho đối tượng bảo vệ.
- Không báo cáo kịp thời: Không thông báo hoặc không báo cáo kịp thời về các sự cố, rủi ro hoặc hành vi xâm phạm đối tượng cần bảo vệ.
Hậu quả của tội phạm có thể bao gồm việc mất mát, hư hỏng hoặc bị lộ bí mật của các tài liệu, cơ sở vật chất hoặc đối tượng bảo vệ. Hậu quả này có thể gây thiệt hại nghiêm trọng về tài sản, sức khỏe, tính mạng hoặc thông tin bảo mật. Bên cạnh đó còn gây suy giảm lòng tin của cộng đồng, tổn hại đến an ninh quốc gia hoặc tạo điều kiện cho các hoạt động phạm pháp khác, ví dụ như gián điệp, khủng bố hoặc phá hoại.
3.3. Mặt chủ quan của tội phạm
Lỗi vô ý trong tội "Vi phạm quy định về bảo vệ" có thể diễn ra dưới hai hình thức:
- Vô ý do quá tự tin: Người phạm tội tuy nhận thức được rằng hành vi của mình có thể dẫn đến hậu quả nghiêm trọng, nhưng chủ quan cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc nếu có xảy ra thì có thể ngăn chặn hoặc khắc phục được. Ví dụ: Một nhân viên bảo vệ có trách nhiệm giám sát an ninh của một cơ sở quan trọng, nhưng vì tin rằng không có nguy cơ nào lớn, nên họ lơ là việc kiểm tra thường xuyên, dẫn đến việc đối tượng xấu dễ dàng xâm nhập và gây ra hậu quả nghiêm trọng.
- Vô ý do cẩu thả: Người phạm tội không nhận thức được rằng hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng, mặc dù lẽ ra họ phải thấy trước và có thể nhận thức được hậu quả đó. Ví dụ: Một quân nhân chịu trách nhiệm bảo vệ tài liệu mật không cẩn thận trong việc bảo quản và dẫn đến việc tài liệu bị mất hoặc lộ ra ngoài. Mặc dù không cố ý, người này đã không lường trước được nguy cơ, mặc dù lẽ ra họ phải cẩn thận và có thể nhận thức được nguy cơ đó.
3.4. Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biệt. Chỉ những người được quy định tại Điều 392 Bộ luật Hình sự mới có thể thực hiện tội phạm.
“Điều 392. Những người phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
1. Quân nhân tại ngũ, công nhân, viên chức quốc phòng.
2. Quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện.
3. Dân quân, tự vệ trong thời gian phối thuộc với quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu.
4. Công dân được trưng tập vào phục vụ trong quân đội.”
Ngoài việc phải là các đối tượng cụ thể được nêu trong điều khoản này, người phạm tội cũng phải đáp ứng đủ điều kiện về độ tuổi và năng lực chịu trách nhiệm hình sự theo Bộ luật Hình sự. Theo Điều 12 Bộ luật Hình sự, người từ đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự đối với tất cả các loại tội. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm đối với các tội phạm rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng, không bao gồm các tội quy định tại Chương XXV. Do đó, chủ thể của tội "Vi phạm quy định về bảo vệ" phải từ đủ 16 tuổi trở lên.
Trân trọng./.