TỘI RA MỆNH LỆNH TRÁI PHÁP LUẬT

(Theo Điều 393 Bộ luật Hình sự năm 2015)

1. Giải thích từ ngữ

Ra mệnh lệnh trái pháp luật được hiểu là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn, ban hành chỉ thị, quyết định hoặc yêu cầu người khác thực hiện hành vi mà nội dung của mệnh lệnh đó vi phạm pháp luật.

2. Tội danh

Điều 393. Tội ra mệnh lệnh trái pháp luật

1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn ra mệnh lệnh trái pháp luật gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 05 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:

a) Trong chiến đấu;

b) Trong khu vực có chiến sự;

c) Trong thực hiện nhiệm vụ cứu hộ, cứu nạn;

d) Trong tình trạng khẩn cấp;

đ) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.

3. Cấu thành tội phạm

3.1. Khách thể của tội phạm

Khách thể của tội ra mệnh lệnh trái pháp luật là trật tự quản lý hành chính nhà nước, trong đó bảo đảm quyền lợi hợp pháp của công dân và tổ chức. Hành vi ra mệnh lệnh trái pháp luật xâm phạm đến quyền lợi hợp pháp của cá nhân, tổ chức hoặc gây ảnh hưởng đến trật tự xã hội và uy tín của cơ quan nhà nước.

3.2. Mặt khách quan của tội phạm

Hành vi ra mệnh lệnh trái pháp luật là hành vi cụ thể của người có chức vụ, quyền hạn ban hành chỉ thị, quyết định hoặc yêu cầu mà nội dung trái với các quy định của pháp luật. Điều này có nghĩa là mệnh lệnh được ban hành không dựa trên cơ sở pháp lý, vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người khác hoặc xâm phạm đến trật tự xã hội.

Ví dụ:

  • Một cán bộ công an ra lệnh bắt giữ một người mà không có căn cứ pháp lý, không có lệnh bắt từ cơ quan có thẩm quyền.
  • Một lãnh đạo cơ quan ra lệnh tịch thu tài sản của cá nhân, tổ chức mà không tuân thủ các quy định về tịch thu tài sản hoặc không có phán quyết của tòa án.

Hậu quả của hành vi ra mệnh lệnh trái pháp luật thường nghiêm trọng và có thể bao gồm:

  • Thiệt hại về tài sản: Ví dụ, mệnh lệnh tịch thu tài sản trái pháp luật có thể dẫn đến việc một cá nhân hoặc tổ chức mất đi tài sản một cách bất hợp pháp.
  • Thiệt hại về tinh thần: Hành vi bắt giữ người trái pháp luật có thể gây ra sự sợ hãi, lo lắng và tổn hại về mặt tinh thần cho nạn nhân và gia đình của họ.
  • Thiệt hại về uy tín: Uy tín của cơ quan nhà nước bị tổn hại khi ra mệnh lệnh trái pháp luật, làm mất niềm tin của người dân vào hệ thống pháp luật và quản lý nhà nước.

Để xác định tội ra mệnh lệnh trái pháp luật, cần chứng minh rõ ràng rằng hậu quả xảy ra là kết quả trực tiếp hoặc gián tiếp từ hành vi ra mệnh lệnh trái pháp luật. Mối quan hệ nhân quả này cần phải thể hiện rõ rằng hành vi ra mệnh lệnh trái pháp luật là nguyên nhân dẫn đến hậu quả nghiêm trọng. Ví dụ, nếu một người bị bắt giữ trái pháp luật dẫn đến tổn thất tinh thần và tài chính cho họ, thì hành vi ra lệnh bắt giữ là nguyên nhân trực tiếp gây ra những thiệt hại này.

3.3. Mặt chủ quan của tội phạm

Lỗi của người phạm tội ra mệnh lệnh trái pháp luật thường là lỗi cố ý, trong đó người phạm tội nhận thức được hành vi của mình là trái pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Trong một số trường hợp, lỗi có thể là lỗi cố ý trực tiếp, khi người phạm tội mong muốn hậu quả của hành vi xảy ra hoặc lỗi cố ý gián tiếp, khi người phạm tội nhận thức được hậu quả có thể xảy ra nhưng vẫn chấp nhận thực hiện hành vi.

  • Cố ý trực tiếp: Người ra mệnh lệnh biết rõ rằng hành vi của mình là trái pháp luật và mong muốn hậu quả xảy ra (ví dụ, bắt giữ người trái pháp luật để đạt được mục đích cá nhân).
  • Cố ý gián tiếp: Người ra mệnh lệnh biết hành vi của mình có thể dẫn đến hậu quả nhưng không trực tiếp mong muốn, chỉ chấp nhận nếu hậu quả xảy ra (ví dụ, ra lệnh thu hồi tài sản mà không quan tâm đến việc có thể vi phạm quyền sở hữu hợp pháp của người khác).

Động cơ của người phạm tội có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, bao gồm:

  • Vụ lợi cá nhân: Người ra mệnh lệnh trái pháp luật để đạt được lợi ích cá nhân, như lợi ích tài chính hoặc thăng tiến chức vụ.
  • Trả thù: Hành vi ra mệnh lệnh trái pháp luật có thể nhằm mục đích trả thù cá nhân hoặc nhóm người nào đó.
  • Bảo vệ lợi ích nhóm: Động cơ có thể đến từ việc bảo vệ lợi ích của một nhóm, tổ chức mà người phạm tội là thành viên hoặc có liên quan.

Mục đích của người phạm tội thường là thực hiện hoặc đạt được một kết quả cụ thể từ việc ra mệnh lệnh trái pháp luật. Mục đích này có thể không đạt được nhưng được thể hiện rõ ràng thông qua hành vi ra mệnh lệnh.

  • Mục đích kinh tế: Ví dụ, ra lệnh tịch thu tài sản trái pháp luật để chiếm đoạt tài sản.
  • Mục đích quyền lực: Ví dụ, ra mệnh lệnh trái pháp luật để củng cố quyền lực hoặc loại bỏ đối thủ chính trị.

3.4. Chủ thể của tội phạm

Chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biệt. Chỉ những người được quy định tại Điều 392 Bộ luật Hình sự mới có thể thực hiện tội phạm.

Điều 392. Những người phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân

1. Quân nhân tại ngũ, công nhân, viên chức quốc phòng.

2. Quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện.

3. Dân quân, tự vệ trong thời gian phối thuộc với quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu.

4. Công dân được trưng tập vào phục vụ trong quân đội.”

Ngoài ra, người phạm tội phải đáp ứng đủ điều kiện về tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự. Theo quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự, chủ thể của tội ra mệnh lệnh trái pháp luật là người từ đủ 16 tuổi trở lên.

Trân trọng./.

Góp ý