1. Giải thích từ ngữ
Giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội được hiểu là trường hợp người phạm tội đã thực hiện hành vi giết người khi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại.
2. Tội danh
“Điều 126. Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội
1. Người nào giết người trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
2. Phạm tội đối với 02 người trở lên, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm.”
3. Cấu thành tội phạm
3.1. Khách thể của tội phạm
Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội gồm 02 tội là tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng và tội giết người do vượt quá mức cần thiết khi bắt người phạm tội. Cả hai tội phạm được nêu trong Điều 126 Bộ luật Hình sự đều xâm phạm trực tiếp đến tính mạng con người. Nói cách khác, cả hai tội phạm đều có khách thể là quyền sống, quyền được Nhà nước bảo hộ về tính mạng của con người.
3.2. Mặt khách quan của tội phạm
Để được coi là giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, hành vi phạm tội ngoài việc thỏa mãn các dấu hiệu của tội giết người nói chung còn phải thỏa mãn các dấu hiệu sau:
- Có hành vi tấn công là hành vi nguy hiểm đáng kể cho xã hội và trái pháp luật;
- Sự tấn công đang hiện hữu;
- Hành vi tấn công xâm phạm các lợi ích được pháp luật bảo vệ;
- Hành vi phòng vệ phải nhằm vào chính kẻ tấn công;
- Hành vi phòng vệ (tước đoạt tính mạng của người có hành vi tấn công) rõ ràng quá mức cần thiết để gạt bỏ sự tấn công: hành vi phòng vệ không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại.
Các hành vi chống trả này có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, có thể là hành động trực tiếp như đánh, đấm, kéo đẩy với hoặc không sử dụng phương tiện hỗ trợ; hoặc có thể là không hành động gì cả.
Ví dụ: Trong trường hợp anh A vì ghen ghét mà tấn công anh B, anh B đã chống trả bằng cách đẩy anh A ra. Khi anh A tiếp tục lao vào tấn công anh B, anh B biết rằng phía sau mình có một cái bẫy để bắt lợn rừng. Nhưng do anh A quá hung hãn nên anh B quyết định không ngăn cản mà để mặc cho anh A lao vào mình, sau đó anh B nhanh chóng tránh sang một bên, khiến anh A tự rơi vào bẫy và tử vong.
Tội giết người trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội là trường hợp một người để bắt giữ người thực hiện hành vi phạm tội mà không còn cách nào khác là buộc phải dùng vũ lực rõ ràng vượt quá mức cần thiết nên đã có hành vi giết người gây ra cái chết cho người bị bắt giữ.
Hậu quả chết người là dấu hiệu bắt buộc. Giữa hậu quả chết người và hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc hành vi vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội có mối quan hệ nhân quả. Cái chết của nạn nhân phải xuất phát từ nguyên nhân là hành vi phòng vệ chính đáng hoặc hành vi bắt giữ người phạm tội.
Ví dụ: A là tên tội phạm đang bị truy nã, bị anh C phát hiện, để khống chế và bắt giữ A, anh C đã đấm nhiều phát vào bụng A, khi giao A cho cơ quan công an thì A ngất đi nên được đưa đến bệnh viện rồi tử vong. Kết quả giám định cho biết A chết do lên cơn nhồi máu cơ tim. Như vậy hành vi đấm vào bụng của anh C không phải nguyên nhân dẫn đến cái chết của A. Vì lẽ đó, anh C không phạm tội giết người vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội.
Tội phạm hoàn thành khi có hậu quả chết người do hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc hành vi vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội.
3.3. Mặt chủ quan của tội phạm
Chủ thể của tội phạm thực hiện hành vi giết người do lỗi vô ý, có thể là lỗi vô ý do quá tự tin hoặc vô ý do cẩu thả hoặc lỗi cố ý gián tiếp. Người phạm tội có động cơ phòng vệ chính đáng hoặc bắt giữ người phạm tội, đây hoàn toàn là động cơ tốt, bảo vệ lợi ích của bản thân, của người khác hoặc của Nhà nước, cơ quan, tổ chức.
3.4. Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội phạm này có thể là bất kỳ người nào từ đủ 16 tuổi trở lên theo Điều 12 Bộ luật Hình sự và có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự theo Điều 21 Bộ luật Hình sự.
Trân trọng./.