TỘI CHỨA CHẤP HOẶC TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ

(Theo Điều 323 Bộ luật Hình sự năm 2015)

1. Giải thích từ ngữ

Chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có được hiểu là hành vi của người biết rõ tài sản là do người khác phạm tội mà có tuy không hứa hẹn trước nhưng vẫn cất giữ, bảo quản, sử dụng, mua bán, trao đổi.

2. Tội danh

Điều 323. Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

1. Người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:

a) Có tổ chức;

b) Có tính chất chuyên nghiệp;

c) Tài sản, vật phạm pháp trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng;

d) Thu lợi bất chính từ 20.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng;

đ) Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 10 năm:

a) Tài sản, vật phạm pháp trị giá từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng;

b) Thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm:

a) Tài sản, vật phạm pháp trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên;

b) Thu lợi bất chính 300.000.000 đồng trở lên.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

3. Cấu thành tội phạm

3.1. Khách thể của tội phạm

Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của cá nhân, tổ chức, và sự công bằng trong quan hệ xã hội. Hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản phạm tội mà có làm suy yếu sự tôn trọng đối với quyền sở hữu và tạo điều kiện cho các hành vi phạm tội khác tiếp tục diễn ra. Khách thể của tội này là quyền sở hữu tài sản được pháp luật bảo vệ, cũng như trật tự quản lý kinh tế và an ninh xã hội.

3.2. Mặt khách quan của tội phạm

Hành vi khách quan của tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có được thể hiện qua hai hành vi chính:

  • Chứa chấp tài sản: Hành vi này bao gồm việc cất giấu, giữ gìn, bảo quản tài sản do người khác phạm tội mà có. Người phạm tội có thể biết rõ hoặc nhận ra rằng tài sản đó là do phạm tội mà có, nhưng vẫn chứa chấp, giúp che giấu để tránh sự phát hiện của cơ quan chức năng.
  • Tiêu thụ tài sản: Tiêu thụ tài sản bao gồm việc mua bán, trao đổi, sử dụng, hoặc chuyển nhượng tài sản do người khác phạm tội mà có. Người phạm tội tiêu thụ tài sản với mục đích thu lợi cá nhân, hoặc giúp người khác tiêu thụ để thu được tiền hoặc lợi ích khác.

Hậu quả của hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản phạm tội mà có bao gồm:

  • Xâm phạm quyền sở hữu tài sản: Hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do phạm tội mà có trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu hợp pháp của người bị hại, gây thiệt hại về tài sản cho họ.
  • Tiếp tay cho tội phạm: Những hành vi này gián tiếp khuyến khích các hành vi phạm tội khác, tạo điều kiện cho tội phạm tiếp tục hoạt động, gây bất ổn trong xã hội.
  • Gây mất niềm tin trong xã hội: Hành vi này làm giảm lòng tin của người dân vào khả năng bảo vệ tài sản của pháp luật, tạo ra sự bất an trong cộng đồng.

Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả trong tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản phạm tội mà có cần được xác định rõ ràng:

  • Nguyên nhân trực tiếp: Hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản là nguyên nhân trực tiếp gây ra việc tiếp tục tồn tại của tài sản bất hợp pháp, cản trở quá trình điều tra và truy thu tài sản của cơ quan chức năng.
  • Hậu quả tất yếu: Hành vi này dẫn đến hậu quả tất yếu là việc tài sản phạm tội mà có không được thu hồi kịp thời, gây thiệt hại cho người bị hại và tiếp tay cho các hành vi phạm tội khác.
  • Mối quan hệ nhân quả chặt chẽ: Nếu không có hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản, các hậu quả như thiệt hại về tài sản và việc tiếp tục hoạt động phạm tội sẽ không xảy ra.

3.3. Mặt chủ quan của tội phạm

Người phạm tội thực hiện hành vi với lỗi cố ý. Họ nhận thức rõ hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố tình thực hiện với mong muốn hoặc mặc nhiên chấp nhận hậu quả sẽ xảy ra. Người phạm tội có thể biết rõ nguồn gốc của tài sản hoặc ít nhất có dấu hiệu nghi ngờ, nhưng vẫn quyết định chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản đó.

Động cơ của người phạm tội thường là:

  • Lợi ích cá nhân: Họ mong muốn thu lợi từ việc chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản bất hợp pháp, thường là để kiếm tiền hoặc các lợi ích vật chất khác.
  • Giúp đỡ người thân hoặc bạn bè: Đôi khi, người phạm tội thực hiện hành vi này để giúp đỡ người thân, bạn bè hoặc đối tác thoát khỏi sự truy đuổi của cơ quan chức năng hoặc để bảo vệ tài sản của họ.

Mục đích của hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản phạm tội mà có thường là để kiếm lợi nhuận hoặc bảo vệ lợi ích vật chất của người phạm tội hoặc người liên quan. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, người phạm tội có thể không có mục đích cụ thể nào ngoài việc che giấu hoặc sử dụng tài sản một cách bất hợp pháp.

3.4. Chủ thể của tội phạm

Chủ thể của tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là bất kỳ cá nhân nào từ đủ 16 tuổi trở lên, có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Chủ thể phải có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình, không thuộc các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự như bị bệnh tâm thần hoặc rơi vào tình trạng không tự chủ. Chủ thể có thể là bất kỳ người nào, không nhất thiết phải là người tham gia trực tiếp vào hành vi phạm tội ban đầu, nhưng họ có liên quan gián tiếp qua việc chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản bất hợp pháp đó.

Trân trọng./.

Góp ý