TỘI BỨC TỬ

(Theo Điều 130 Bộ luật Hình sự năm 2015)

1. Giải thích từ ngữ

Bức tử được hiểu là trường hợp của một người đối xử tàn ác, thường xuyên ức hiếp, ngược đãi hoặc làm nhục người lệ thuộc mình làm người đó tự sát.

2. Tội danh

“Điều 130. Tội bức tử

1. Người nào đối xử tàn ác, thường xuyên ức hiếp, ngược đãi hoặc làm nhục người lệ thuộc mình làm người đó tự sát, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm:

a) Đối với 02 người trở lên;

b) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai.”

3. Cấu thành tội phạm

3.1. Khách thể của tội phạm

Tội phạm xâm phạm đến mối quan hệ liên quan đến sức khỏe, tính mạng của con người được pháp luật hình sự bảo vệ, quyền được sống của con người được pháp luật bảo vệ.

Đối tượng tác độn của tội phạm là người có mối quan hệ lệ thuộc vào người phạm tội về công việc, tín ngưỡng, tình cảm, hôn nhân, gia đình, kinh tế,…

3.2. Mặt khách quan của tội phạm

- Về hành vi: người phạm tội đã có những hành vi tàn ác, thường xuyên ức hiếp, ngược đãi, hoặc làm nhục người lệ thuộc mình. Trong đó:

+ Thứ nhất, hành vi đối xử tàn ác người lệ thuộc mình: thường xuyên đánh đập, bỏ đói, bỏ rét, bóc lột sức lao động khiến nạn nhân tổn thương về mặt thể xác đến mức có thương tích hoặc gây tổn hại sức khoẻ nạn nhân.

+ Thứ hai, hành vi thường xuyên ức hiếp người lệ thuộc mình: xử sự không công bằng, xâm phạm quyền hoặc lợi ích chính đáng của nạn nhân, thường kéo dài là lặp lại nhiều lần, lợi dụng sự phụ thuộc của nạn nhân vào mình để đối xử bất công, xâm phạm đến các quyền và lợi ích hợp pháp của họ một cách trái pháp luật.

+ Thứ ba, hành vi ngược đãi người lệ thuộc mình: đối xử tệ bạc, cho ăn đồ bẩn, ôi thiu, cho mặc đồ rách rưới, không đủ ấm, … trong khi có điều kiện tốt hơn để thực hiện.

+ Thứ tư, hành vi làm nhục người lệ thuộc mình: xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm của người lệ thuộc một cách trái pháp luật, khiến họ cảm thấy bị tổn thương sâu sắc thể hiện qua các hành vi chửi rủa thậm tệ, bôi nhọ danh dự, bịa đặt, chì chiết hoặc làm một số hành vi bỉ ổi không thể chấp nhận.

- Về mặt hậu quả: hành vi của người phạm tội đã dẫn đến việc người bị hại tự sát. Việc người bị hại tự sát mà dẫn đến cái chết hay không, không phải là yếu tố bắt buộc để xác định tội phạm này.

Về cơ bản, các hành vi trên đã là một bộ phận cấu thành tội phạm bức tử (hậu quả là người lệ thuộc tự sát) nên người thực hiện hành vi sẽ không bị xử lý thêm về tội phạm khác như Tội hành hạ người khác (Điều 140 Bộ luật Hình sự); Tội làm nhục người khác (Điều 155 Bộ luật Hình sự).

Lưu ý: Nếu có hành vi ngược đãi nhưng nạn nhân tự tử vì một nguyên nhân khác thì không thể cấu thành tội bức tử.

Tội phạm hoàn thành từ thời điểm người lệ thuộc vào người phạm tội có hành vi tự sát mà không phụ thuộc vào việc người tự sát có chết hay không. Chỉ cần nạn nhân có hành vi tự sát là tội phạm hoàn thành, còn việc nạn nhân chết hay được cứu sống chỉ có ý nghĩa xem xét khi quyết định hình phạt. Ngoài ra, có những trường hợp có thể xem xét bị truy tố hoặc không truy tố người có hành vi bức tử nếu nạn nhân không bị chết.

3.3. Mặt chủ quan của tội phạm

Các hành vi phạm tội của tội này được thực hiện do lỗi cố ý gián tiếp hoặc do lỗi vô ý, cụ thể:

– Lỗi cố ý gián tiếp (Khoản 2 Điều 10 Bộ luật Hình sự): người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình có thể khiến cho người bị hại tự sát, thấy trước hậu quả tự sát có thể xảy ra, tuy không mong muốn những vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.

– Lỗi vô ý do quá tự tin (khoản 1 Điều 11 Bộ luật Hình sự): Người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể khiến người bị hại tự sát nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra, người bị hại không dám tự sát hoặc không thể tự sát, hoặc có thể ngăn cản được người bị hại tự sát.

– Lỗi vô ý do cẩu thả (khoản 2 Điều 11 Bộ luật Hình sự): Người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể khiến cho người bị hại tự sát, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước.

3.4. Chủ thể của tội phạm

Chủ thể của tội phạm này có thể là bất kỳ người nào từ đủ 16 tuổi trở lên theo Điều 12 Bộ luật Hình sự và có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự theo Điều 21 Bộ luật Hình sự.

Trân trọng./.

Góp ý