Quyết định giám đốc thẩm số 41/2023/HC-GĐT ngày 28/6/2023 của Tòa án nhân dân tối cao xét xử vụ án hành chính về “Khiếu kiện Quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai”

Quyết định giám đốc thẩm số 41/2023/HC-GĐT ngày 28/6/2023 của Tòa án nhân dân tối cao xét xử vụ án hành chính về “Khiếu kiện Quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai”

Nội dung hủy án:

1. Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng có một phần diện tích khoảng 958 m2 trong tổng số 2.135,9 m2 gia đình bà T đã sử dụng từ năm 2000, phù hợp quy hoạch là đất trồng cây lâu năm nên đủ điều kiện cấp GCNQSDĐ. Tòa án cấp phúc thẩm xác định: Quá trình sử dụng đất gia đình bà T không bị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính về đất đai, việc sử dụng đất là ổn định, liên tục, không có tranh chấp. Phía UBND huyện Côn Đ cho rằng diện tích đất 2.135,9 m2 kể trên là thuộc rừng phòng hộ do UBND huyện quản lý, nhưng căn cứ vào bảng tổng hợp độ che phủ rừng tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu theo Quyết định số 3059/QĐ-UBND ngày 02/11/2016 của UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu về việc phê duyệt và công bố kết quả kiểm kê rừng tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu thì diện tích rừng phòng hộ trên huyện Côn Đ là không có. Đối chiếu Bản đồ quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010, Kế hoạch sử dụng đất giai đoạn 2006-2010 huyện Côn Đ, vị trí một phần thửa số 205, tờ bản đồ số 41 được quy hoạch là đất rừng phòng hộ; Bản đồ quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020, Kế hoạch sử dụng đất kỳ đầu (2011-2015) huyện Côn Đ, một phần thửa số 205, tờ bản đồ số 41 được quy hoạch một phần là đất trồng cây lâu năm, một phần quy hoạch là đất Trụ sở Đội Cảnh sát Phòng cháy chữa cháy… Do đó căn cứ Điều 101 Luật Đất đai 2013, điểm c khoản 2, khoản 4 Điều 22 Nghị định số 43/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ thì diện tích đất 2.135 m2 gia đình bà T đang sử dụng là phù hợp với quy hoạch, đủ điều kiện để cấp GCNQSDĐ. Từ đó, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm đã chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà T, tuyên hủy Văn bản số 3185/UBND-TNMT ngày 07/11/2018 của UBND huyện Côn Đ là không đúng và chưa đủ căn cứ. Bởi lẽ, điểm c khoản 2 Điều 22 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai, trong đó quy định về việc xem xét cấp GCNQSDĐ đối với trường hợp người sử dụng đất lấn, chiếm đã được Nhà nước giao đất thu tiền sử dụng đất cho các nông trường, lâm trường quốc doanh, ban quản lý rừng, trung tâm, trạm, trại, công ty nông nghiệp, lâm nghiệp. Tuy nhiên, trong vụ án này, người bị kiện cho rằng đây là đất thuộc quyền quản lý của Nhà nước, chưa có một quyết định, văn bản nào của UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu hoặc UBND huyện Côn Đ giao đất không thu tiền sử dụng đất cho bất kỳ nông trường, lâm trường quốc doanh hay tổ chức, cá nhân nào sử dụng nên không thuộc trường hợp được áp dụng điểm c khoản 2 Điều 22 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP nêu trên.

2. Tòa án cấp sơ thẩm buộc UBND huyện Côn Đ cấp GCNQSDĐ cho gia đình bà T phần diện tích khoảng 958m2 (diện tích cụ thể do cơ quan có thẩm quyền đo đạc khi cấp GCNQSDĐ); Tòa án cấp phúc thẩm buộc UBND huyện Côn Đ cấp GCNQSDĐ diện tích 2.135,9 m2 cho gia đình bà T là vượt quá thẩm quyền của Hội đồng xét xử, không đúng quy định tại điểm b khoản 2 Điều 193 Luật Tố tụng hành chính, bởi vì việc cấp GCNQSDĐ với diện tích đất cụ thể là thuộc thẩm quyền của UBND, trên cơ sở quỹ đất của địa phương, giấy tờ chứng minh quyền sử dụng đất hợp pháp của hộ gia đình, cá nhân, việc sử dụng đất trên thực tế, UBND huyện Côn Đ sẽ thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật.

Bài viết liên quan

Góp ý