TỘI ĐƯA VÀO SỬ DỤNG CÁC PHƯƠNG TIỆN, THIẾT BỊ GIAO THÔNG ĐƯỜNG SẮT KHÔNG BẢO ĐẢM AN TOÀN

(Theo Điều 269 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017)

1. Giải thích từ ngữ

Đưa vào sử dụng phương tiện, thiết bị giao thông đường sắt không bảo đảm an toàn được hiểu là hành vi của người chịu trách nhiệm trực tiếp về việc điều động hoặc về tình trạng kỹ thuật mà cho phép đưa vào sử dụng phương tiện, thiết bị giao thông đường sắt rõ ràng không bảo đảm tiêu chuẩn an toàn kỹ thuật, không có giấy chứng nhận đăng ký, đăng kiểm gây thiệt hại cho người khác.

2. Tội danh

Điều 269. Tội đưa vào sử dụng phương tiện, thiết bị giao thông đường sắt không bảo đảm an toàn

1. Người nào chịu trách nhiệm trực tiếp về việc điều động hoặc về tình trạng kỹ thuật mà cho phép đưa vào sử dụng phương tiện, thiết bị giao thông đường sắt rõ ràng không bảo đảm tiêu chuẩn an toàn kỹ thuật, không có giấy chứng nhận đăng ký, đăng kiểm gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây hoặc đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Làm chết người;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;

c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;

d) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:

a) Làm chết 02 người;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200%;

c) Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

a) Làm chết 03 người trở lên;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 201% trở lên;

c) Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên.

4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

3. Cấu thành tội phạm

3.1. Khách thể của tội phạm

Khách thể của tội phạm này là trật tự và an toàn giao thông đường sắt. Đối tượng bị tác động bao gồm các phương tiện giao thông đường sắt như đầu máy, toa xe, và các thiết bị chuyên dụng hoạt động trên đường sắt.

Tội phạm này vi phạm các quy định của nhà nước về an toàn giao thông đường sắt, những quy định nhằm bảo đảm sự vận hành bình thường của các phương tiện giao thông đường sắt, bảo vệ tài sản của nhà nước và tổ chức, cũng như bảo vệ tính mạng, sức khỏe và tài sản của công dân.

3.2. Mặt khách quan của tội phạm

- Hành vi

Hành vi phạm tội này chủ yếu là hành vi cho phép đưa vào sử dụng các phương tiện giao thông đường sắt không đảm bảo an toàn, và có thể được thực hiện qua nhiều hình thức khác nhau, bao gồm thông qua các thông báo miệng, văn bản hoặc các hình thức khác.

Tội phạm này được thực hiện bởi những người có trách nhiệm trực tiếp về việc điều động hoặc tình trạng kỹ thuật của phương tiện và thiết bị giao thông đường sắt. Người phạm tội cho phép đưa vào sử dụng các phương tiện và thiết bị không đảm bảo an toàn, chẳng hạn như các phương tiện không đạt tiêu chuẩn kỹ thuật (như hỏng phanh, hỏng tay lái, hoặc hỏng bộ phận chuyển động). Mặc dù biết rõ rằng phương tiện không đảm bảo an toàn nhưng người phạm tội vẫn quyết định cho phép sử dụng nó.

- Hậu quả

Khác với các tội phạm vi phạm quy định an toàn giao thông khác, hậu quả từ hành vi đưa vào sử dụng phương tiện giao thông đường sắt không đảm bảo an toàn vừa là yếu tố bắt buộc trong cấu thành tội phạm này, vừa không phải là yếu tố bắt buộc trong một số trường hợp.

  • Yếu tố bắt buộc: Nếu người phạm tội chưa bị xử lý kỷ luật về hành vi đưa vào sử dụng phương tiện giao thông đường sắt không đảm bảo an toàn, thì hậu quả của hành vi này sẽ là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm.
  • Không phải yếu tố bắt buộc: Nếu người phạm tội đã bị xử lý kỷ luật liên quan đến hành vi đưa vào sử dụng phương tiện giao thông đường sắt không đảm bảo an toàn, thì hậu quả không còn là yếu tố bắt buộc để cấu thành tội phạm.

Hậu quả của hành vi này có thể bao gồm thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng đến sức khỏe, tài sản của người khác. Việc xác định thiệt hại sẽ được thực hiện theo quy định tương tự như đối với các tội phạm được quy định tại các Điều 202, 203, 204, 205, 208 và 209 BLHS.

Nếu hành vi gây ra hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 hoặc khoản 3 của điều luật.

Ngoài hành vi khách quan, đối với tội đưa vào sử dụng các phương tiện giao thông đường sắt không bảo đảm an toàn, nhà làm luật quy định một số dấu hiệu khách quan khác là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm như: tình trạng kỹ thuật của các phương tiện giao thông đường sắt (các  thiết bị, độ an toàn về kỹ thuật, các thông số kỹ thuật theo quy định của các phương tiện đầu máy, toa xe và các thiết bị chuyên dùng hoạt động trên đường sắt…).

Các dấu hiệu khách quan được quy định tại Luật đường sắt.

3.3. Mặt chủ quan của tội phạm

Người thực hiện hành vi đưa vào sử dụng phương tiện giao thông đường sắt không bảo đảm an toàn là do vô ý (vô ý vì quá tự tin hoặc vô ý vì cẩu thả, nhưng chủ yếu là vô ý vì quá tự tin).

Tương tự như tội phạm liên quan đến việc đưa vào sử dụng phương tiện giao thông đường bộ không đảm bảo an toàn, đối với tội phạm liên quan đến việc sử dụng phương tiện giao thông đường sắt không đảm bảo an toàn, người phạm tội phải nhận thức rõ rằng phương tiện đó không an toàn trước khi thực hiện hành vi. Nếu vì lý do nào đó họ không biết hoặc không thể biết rằng phương tiện không đảm bảo an toàn, thì hành vi đó chưa cấu thành tội phạm. Một số ý kiến cho rằng tội phạm này thường là do cố ý, vì người thực hiện đã biết rõ phương tiện không an toàn nhưng vẫn cho phép sử dụng. Có thể nói là người phạm tội cố ý thực hiện hành vi nhưng không mong muốn cho hậu quả xảy ra nên cũng không thỏa mãn các dấu hiệu về cố ý phạm tội.

3.4. Chủ thể của tội phạm

Chủ thể của tội phạm này là những cá nhân có trách nhiệm đặc biệt. Chỉ những người có trách nhiệm trực tiếp về việc điều động hoặc tình trạng kỹ thuật của phương tiện giao thông đường sắt mới có thể là chủ thể của tội phạm này.

Những người này có thể là những cá nhân có chức vụ và quyền hạn liên quan đến việc điều động phương tiện giao thông đường sắt hoặc những người không có chức vụ chính thức nhưng do đặc thù công việc có trách nhiệm trong việc điều động, chẳng hạn như lãnh đạo các đơn vị quản lý, chế tạo, sửa chữa, bảo dưỡng, kiểm định, hoặc sử dụng phương tiện giao thông đường sắt, cũng như những người được ủy quyền hoặc có quyền cho phép đưa vào sử dụng các phương tiện này.

Nếu hành vi đưa vào sử dụng phương tiện giao thông đường sắt không an toàn chưa gây thiệt hại về tính mạng hoặc chưa gây thiệt hại nghiêm trọng về sức khỏe, tài sản của người khác, thì người phạm tội phải là người đã bị xử lý kỷ luật trước đó và vẫn tiếp tục vi phạm mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Đây là điểm khác biệt so với các tội phạm liên quan đến việc đưa vào sử dụng phương tiện giao thông đường bộ không đảm bảo an toàn, vì việc đưa vào sử dụng phương tiện giao thông đường sắt không đảm bảo an toàn được coi là nghiêm trọng hơn. Mặc dù chưa gây thiệt hại, nếu đã bị xử lý kỷ luật mà vẫn tiếp tục vi phạm thì vẫn bị coi là tội phạm.

Trân trọng./.