
Giao dịch dân sự của công dân Việt Nam khi nào được xem là quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài?
Luật sư cho tôi hỏi: Ông A và bà B, đều là công dân Việt Nam, ký kết một hợp đồng mua bán hàng hóa trị giá 500 triệu đồng. Trong hợp đồng, ông A yêu cầu bà B giao hàng tại một cảng ở Singapore và thanh toán bằng đô la Mỹ thông qua tài khoản ngân hàng ở nước ngoài. Tôi muốn hỏi về vấn đề quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Cụ thể, tôi có thắc mắc là trường hợp này thì có thể xem là quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài không?
Trả lời:
1. Giao dịch dân sự là gì?
Theo quy định tại Điều 116 Bộ luật Dân sự 2015, giao dịch dân sự được định nghĩa như sau:
“Điều 116. Giao dịch dân sự
Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.”
2. Năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự của cá nhân trong quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được quy định như thế nào?
Căn cứ theo Điều 674 Bộ luật Dân sự 2015, năng lực pháp luật dân sự của cá nhân được quy định như sau:
“Điều 674. Năng lực hành vi dân sự của cá nhân
1. Năng lực hành vi dân sự của cá nhân được xác định theo pháp luật của nước mà người đó có quốc tịch, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.
2. Trường hợp người nước ngoài xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự tại Việt Nam, năng lực hành vi dân sự của người nước ngoài đó được xác định theo pháp luật Việt Nam.
3. Việc xác định cá nhân bị mất năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự tại Việt Nam theo pháp luật Việt Nam.”
3. Giao dịch dân sự của công dân Việt Nam khi nào được xem là quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài?
Căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 663 Bộ luật Dân sự 2015 như sau:
“Điều 663. Phạm vi áp dụng
2. Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là quan hệ dân sự thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Có ít nhất một trong các bên tham gia là cá nhân, pháp nhân nước ngoài;
b) Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng việc xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ đó xảy ra tại nước ngoài;
c) Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng đối tượng của quan hệ dân sự đó ở nước ngoài.”
Một quan hệ dân sự được coi là có yếu tố nước ngoài khi đáp ứng một trong các điều kiện sau:
- Về chủ thể: Có ít nhất một bên tham gia là cá nhân hoặc pháp nhân nước ngoài.
- Về sự kiện pháp lý: Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam hoặc pháp nhân Việt Nam, nhưng việc xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ đó xảy ra ở nước ngoài.
- Về khách thể: Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam hoặc pháp nhân Việt Nam, nhưng đối tượng của quan hệ dân sự đó ở nước ngoài.
Như vậy, theo quy định nêu trên, nếu giao dịch dân sự giữa công dân Việt Nam hoặc pháp nhân Việt Nam có yếu tố liên quan đến nước ngoài, chẳng hạn như việc thực hiện hoặc chấm dứt giao dịch tại nước ngoài hoặc đối tượng của giao dịch ở nước ngoài, thì giao dịch đó được xem là quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài.
4. Xác định pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài như thế nào?
Theo Điều 664 Bộ luật Dân sự 2015, việc xác định pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được quy định như sau:
“Điều 664. Xác định pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài
1. Pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được xác định theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc luật Việt Nam.
2. Trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc luật Việt Nam có quy định các bên có quyền lựa chọn thì pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được xác định theo lựa chọn của các bên.
3. Trường hợp không xác định được pháp luật áp dụng theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này thì pháp luật áp dụng là pháp luật của nước có mối liên hệ gắn bó nhất với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài đó.”
Trường hợp nào không áp dụng pháp luật nước ngoài đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài?
Theo quy định tại Điều 670 Bộ luật Dân sự 2015 như sau:
“Điều 670. Trường hợp không áp dụng pháp luật nước ngoài
1. Pháp luật nước ngoài được dẫn chiếu đến không được áp dụng trong trường hợp sau đây:
a) Hậu quả của việc áp dụng pháp luật nước ngoài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam;
b) Nội dung của pháp luật nước ngoài không xác định được mặc dù đã áp dụng các biện pháp cần thiết theo quy định của pháp luật tố tụng.
2. Trường hợp pháp luật nước ngoài không được áp dụng theo quy định tại khoản 1 Điều này thì pháp luật Việt Nam được áp dụng.”
Như vậy, các trường hợp sau đây sẽ không được áp dụng pháp luật nước ngoài:
- Khi việc áp dụng pháp luật nước ngoài dẫn đến hậu quả trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
- Khi nội dung của pháp luật nước ngoài không thể xác định được, dù đã thực hiện các biện pháp cần thiết theo quy định của pháp luật tố tụng.
Trong các trường hợp này, pháp luật Việt Nam sẽ được áp dụng thay thế.
Trân trọng./.