Nội dung sửa án:
(i) Nguồn gốc thửa đất số 54, tờ bản đồ số 26 thôn L, xã T các đương sự đang tranh chấp là đất thổ cư (đất phi nông nghiệp) do ông cha để lại. Theo Sổ mục kê và Bản đồ 299 là thửa đất số 88, diện tích 462m2. Sổ mục kê ghi tên Đào Văn T3. Theo Bản đồ địa chính 364 (phê duyệt năm 1996) thửa đất số 54, tờ bản đồ số 26 tên chủ sử dụng là ông Đào Văn T3. Phía Bắc giáp chủ sử dụng đất là Đào Văn G; phía Tây giáp chủ sử dụng đất là ông Nguyễn Văn V; Phía Nam và Đông giáp đường đi. Ngày 28/4/1999, ông Đào Văn T2 đại diện cho hộ gia đình kê khai đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thổ cư đối với thửa đất số 54, tờ bản đồ số 26, diện tích 486m2. Hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hộ gia đình ông Đào Văn T2 có kê khai đối với thửa đất số 54, tờ bản đồ số 26, diện tích 486m2 là đất thổ cư cũ và đã được UBND xã T xác nhận ngày 16/8/1999. Ngày 15/9/1999, UBND huyện Đ đã ban hành Quyết định số 388/QĐ-UB cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở nông thôn cho 123 hộ nhân dân xã T, trong đó có trường hợp hộ gia đình ông Đào Văn T2 tại thửa đất số 54, tờ bản đồ số 26, diện tích 486m2 đất ở tại thôn L, xã T.
(ii) UBND xã T đã tổ chức Hội nghị lấy ý kiến cộng đồng dân cư vào ngày 08/4/2021 xác định: Tại thời điểm ông Đào Văn T2 được cấp GCN QSD đất vợ chồng ông T2 (ông T2, bà Xuân); 02 con của ông T2 (trai, gái); bà H, vợ chồng anh H2, N3 (con trai, con dâu bà H); cụ C (là mẹ đẻ của ông T2, bà H). Trên đất ông T2 được cấp GCN QSD đất gia đình bà H được xây dựng ngôi nhà và khuôn viên vào khoảng năm 1988 - 1989 (từ trước khi cụ T3 mất vào khoảng năm 1994). Hàng năm vẫn nộp thuế quyền sử dụng đất.
(iii) Tại phiên tòa người khởi kiện và người đại diện theo ủy quyền trình bày, trước năm 1993 bà H được bố mẹ bà cho sử dụng một phần diện tích đất là 120m2 (trong tổng diện tích 486m2) thửa đất số 54 tờ bản đồ số 26 tại thôn L, xã T, huyện Đ, thành phố Hà Nội để xây dựng nhà, có khuôn viên riêng và sinh sống ổn định từ năm 1990 đến nay; hàng năm gia đình bà H vẫn nộp thuế đất. Năm 1999 ông T2 (em trai bà) đề nghị cấp giấy chứng nhận thửa đất trên nhưng không có chữ ký của bà khi làm hồ sơ cấp giấy và khi cấp đã cấp cả phần đất của gia đình bà H đang sử dụng.
(iv) Do đó, có thể xác định: Diện tích đất các đương sự đang tranh chấp là cụ T3, cụ C, điều này được các đương sự thừa nhận, hai cụ trước khi chết không để lại di chúc nào có hiệu lực cho ông T2 diện tích đất trên trong khi hai cụ có 05 người con thuộc hàng thừa kế thứ nhất cũng không có tên trong sổ hộ khẩu năm 1999 (tức là thời điểm cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông T2); ông T2 cũng không có tài liệu nào chứng minh những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ T3, thống nhất để ông T2 đứng tên thửa đất tranh chấp nêu trên. Hồ sơ cấp Giấy cũng không phản ánh đúng thực tế thửa đất vì trên diện tích đất 486m2 còn có nhà của bà H. Như vậy, việc cấp Giấy chứng nhận chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình ông Đào Văn T2 tại thửa đất số 54, tờ bản đồ số 26 thôn L, xã T, huyện Đ đã thực hiện không đúng quy trình, trình tự thủ tục. Điều này được thể hiện tại đơn đăng ký kê khai cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có ghi đại diện gia đình gồm có các thành viên ký tên gồm có ông T2, bà X, cụ Trần Thị C và cụ Đào Văn T3. Tuy nhiên tại thời điểm viết đơn cụ T3 đã chết (1994) và bà X (con dâu, vợ anh T2) không phải hàng thừa kế thứ nhất của hai cụ.
Như phân tích ở trên việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông T2 không đúng dẫn đến bà H có đơn khiếu nại (lần đầu) của Chủ tịch UBND huyện Đ. Ngày 22/10/2021, UBND huyện Đ ban hành Quyết định số 12639/QĐ-CTUB giải quyết khiếu nại của bà H giữ nguyên các nội dung tại Văn bản số 1845 ngày 22/6/2021 là cũng không có căn cứ. Do đó, kháng cáo của bà H hủy các quyết định là có căn cứ được chấp nhận và được cấp lại theo quy định của pháp luật thừa kế.