Bản án hành chính phúc thẩm số 342/2023/HC-PT ngày 18/9/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng về việc Kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai

Nội dung sửa án:   

(i) Xét thấy, việc Ủy ban nhân huyện hủy bỏ nội dung thu hồi thửa đất số 498, tờ bản đồ số 11 nên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số G695301 ngày 10/8/1995 đối với diện tích 4.487 m2 đất, trong đó: thửa đất 498, tờ bản đồ 11, diện tích 1092m2, loại đất thổ cư đã được cấp GCNQSDĐ lần đầu này tiếp tục là căn cứ để xác định nguồn gốc sử dụng đất để công nhận quyền sử dụng đất và giải quyết việc bồi thường. Về quy hoạch mới diện tích 1092m2, loại đất thổ cư của hộ bà Mai Thị T6 bị thu hồi là để thực hiện dự án khu đô thị N đến nay dự án đã được triển khai, hoạt động. Việc ban hành Quyết định 5228 công nhận và thu hồi diện tích theo hiện trạng sử dụng của bà Mai Thị T6 đáng lý ra phải công nhận toàn bộ diện tích 1092m2 đất là đất ở tại nông thôn mới đúng nhưng lại chỉ công nhận 300m2 đất ở tại nông thôn, còn diện tích 792m2 công nhận là đất trồng cây lâu năm là trái pháp luật.

Vì vậy, kháng cáo của người khởi kiện về yêu cầu: hủy 1 phần nội dung Quyết định 228 về việc xác định 792m2 đất trồng cây lâu năm (có nguồn gốc đất vườn ao); buộc UBND huyện ban hành quyết định bổ sung công nhận 792m2 đất trồng cây lâu năm sang thành 792m2 đất ở là có căn cứ chấp nhận.

(ii) Từ việc Quyết định số 228 về việc xác định 792m2 đất ở là đất trồng cây lâu năm nêu trên là không đúng dẫn tới việc ban hành các quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cũng như các quyết định khác về việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư của UBND huyện D cũng không đúng pháp luật.

Như vậy, nội dung Quyết định số 5229/QĐ-UBND ngày 14/9/2020 của UBND huyện D về phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư công trình Khu đô thị N (đợt 13) lại xác định: 01 lô đã bố trí trong đợt này và 01 lô đã bố trí theo diện di dời sạt lở năm 2007 cũng như Quyết định 7104/QĐ-UBND ngày 18/12/2020 của UBND huyện D về phê duyệt điều chỉnh, bổ sung Quyết định số 5229/QĐ-UBND ngày 14/9/2020 của UBND huyện D phê duyệt điều chỉnh bổ sung từ 01 lô thành “02 lô” đất tái định cư, trong đó có nội dung lại xác định là 01 lô đã bố trí theo diện di dời sạt lở năm 2007 là chưa tương xứng và không đúng theo quy định của pháp luật.

Xét thấy, việc giao đất tái định cư diện xói lở diện tích 150,4m2 tại thửa số 524, tờ bản đồ số 11 để hộ bà Mai Thị T6 xây dựng nhà ở, bà T6 đã được cấp GCNQSDĐ từ năm 2007 không có liên quan đến dự án khu đô thị N nên nội dung xác định là 01 lô đất đã bố trí theo diện di dời sạt lở năm 2007 tại các quyết định trên là không đúng pháp luật.

(iii) Tại phiên tòa phúc thẩm ông T xác định việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho hộ bà Mai Thị T6 mới chỉ được bố trí 01 lô đất số CL9 - 30 trong đợt này nên kháng cáo yêu cầu UBND huyện D tiếp tục bố trí thêm 02 lô đất tái định cư mới khi thực hiện dự án Khu đô thị N. Do vậy, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp người khởi kiện cũng như quyền lợi của những người thừa kế tài sản của bà Mai Thị T6. Xét thấy, cần chấp nhận kháng cáo của ông T, hủy các quyết định Quyết định số 5229; Quyết định 7104/QĐ-UBND ngày 18/12/2020 của UBND huyện D về phê duyệt điều chỉnh, bổ sung Quyết định số 5229;Quyết định số 5310/QĐ-UBND ngày 17/9/2020 của UBND huyện D và các quyết định khác có liên quan đến nội dung xác định 792m2 đất là đất trồng cây lâu năm do UBND huyện D đã ban hành. Buộc UBND huyện D ban hành lại quyết định bổ sung về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư Khu đô thị N và quyết định về việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho hộ bà Mai Thị T6, bố trí đất tái định cư cho hộ gia đình bà Theo 03 lô đất theo quy định tại điểm b, khoản 4 Điều 11a Quyết định số 19/2017/QĐ - UBND ngày 05/9/2017 của UBND tỉnh Q v.v sửa đổi bổ sung một số điều về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.

Bài viết liên quan

Góp ý