Nội dung sửa án:
(i) Ngày 05 tháng 3 năm 2002, bà Đoàn Thị Í được UBND huyện Q (nay là thị xã B) cấp GCNQSDĐ lần đầu tại thửa đất số 548, tờ bản đồ số 02 xã Q với diện tích 227m2. Tại thời điểm cấp GCNQSDĐ cho bà Í thì trên đất này đang tồn tại hai ngôi nhà của ông T và bà N, là tài sản của ông T và bà N. Ông T, bà N chết thì tài sản này thuộc di sản thừa kế của người thừa kế theo quy định của pháp luật về thừa kế. Theo lời trình bày của ông Đoàn Y và xác nhận của UBND xã Q (B 12, 13) ông Đoàn T và bà Nguyễn Thị N có 02 người con là ông Đoàn Y và bà Đoàn Thị E, bà E là Liệt sĩ chống Pháp. Vậy ông Đoàn Y là người thừa kế duy nhất của ông Đoàn T và bà Nguyễn Thị N. Trong khi hồ sơ vụ án không có tài liệu chứng cứ nào chứng minh, bà Í được nhận tài sản này thông qua hợp đồng chuyển nhượng, được thừa kế hoặc được tặng cho. Mặt khác cũng không có tài liệu chứng cứ nào thể hiện việc UBND huyện Q thu hồi diện tích đất này để cấp cho bà Í theo quy định tại Điều 21 Luật đất đai năm 1993. Như vậy, quá trình thẩm định và cấp GCNQSDĐ của UBND huyện Q (nay là thị xã B) đã không thực hiện đúng quy định tại điểm e, g khoản 3 mục 1, chương 3 Thông tư 1990/2001/TT-TCĐC ngày 30/11/2001 của T4 về Hướng dẫn đăng ký đất đai, lập hồ sơ địa chính và cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tức là khi nhận hồ sơ, cơ quan địa chính cấp huyện phải tiến hành thẩm định đất có đủ điều kiện được cấp GCNQSDĐ hay không, trên đất có tài sản như thế nào, của ai; khi đủ điều kiện mới trình cấp có thẩm quyền xem xét cấp GCNQSDĐ. Do đó, việc cấp GCNQSDĐ cho bà Í của UBND huyện Q (nay là thị xã B) không đúng pháp luật.
(ii) Sau khi được cấp GCNQSDĐ ngày 10/5/2013 bà Đoàn Thị Í được UBND thị xã B cấp đổi thành GCNQSDĐ số BM 608234 tại thửa đất số 718, tờ bản đồ số 06 xã Q với diện tích 222m2. Ngày 17/9/2014, bà Í lập hợp đồng tặng cho con gái bà Lê Thị Hải  toàn bộ thửa đất và tài sản trên đất, bà  đã được UBND thị xã B cấp GCNQSDĐ số BV 397973 ngày 16/01/2015 tại thửa đất số 718, tờ bản đồ số 06 xã Q với diện tích 222m2. Việc người khởi kiện yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào sổ 00711/QSDĐ/122/QĐ-UB ngày 05/3/2002 của UBND huyện Q cấp cho bà Đoàn Thị Í; GCNQSDĐ số BM 608234 ngày 10/5/2013 của UBND thị xã B cấp cho bà Đoàn Thị Í và GCNQSDĐ số BV 397973 ngày 16/01/2015 của UBND thị xã B cấp cho bà Lê Thị Hải Â, Hội đồng xét xử thấy rằng: sau khi được cấp GCNQSDĐ vào năm 2002, bà Í thực hiện thủ tục cấp đổi GCNQSDĐ vào năm 2013 và L1 hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất cho bà  vào năm 2014 là quyền của bà Í. Tuy nhiên, như phân tích ở mục [5], việc UBND huyện Q (nay là thị xã B) cấp GCNQSDĐ vào năm 2002 cho bà Í không đúng pháp luật. Khi bà Í lập hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất này cho bà Lê Thị Hải  thì trên diện tích đất này đang tồn tại tài sản là hai ngôi nhà của ông Đoàn T và bà Nguyễn Thị N. Và từ Quyết định này dẫn dắt đến các Quyết định số BM 608234 ngày 10/5/2013 và Quyết định số BV 397973 ngày 16/01/2015. Do đó, cần chấp nhận toàn bộ yêu cầu của người khởi kiện.
Từ những phân tích và lập luận trên thấy rằng, nguồn gốc nhà và đất tại thửa đất số 548, tờ bản đồ số 02, nay là thửa đất số 718, tờ bản đồ số 06 tại xã Q, huyện Q (nay là thị xã B) là của ông Đoàn T và bà Nguyễn Thị N. Ngày 05/3/2002, UBND huyện Q cấp GCNQSDĐ cho bà Đoàn Thị Í là không đúng pháp luật. Toà án cấp sơ thẩm xử bác yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện là không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện. Kháng cáo của người khởi kiện là có căn cứ, được Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận, sửa Bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện.