MỤC LỤC
1. Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 11A/2022/KDTM-PT ngày 04/8/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai về tranh chấp hợp đồng gia công.
Nội dung hủy án:
(i) Tại phiên tòa phúc thẩm cũng như quá trình thu thập chứng cứ của cấp sơ thẩm đại diện cho nguyên đơn T là ông Ngô Mạnh H (BL 103) cũng xác định: Hợp đồng 01/2020 do E soạn thảo, ngày 01/3/2020 E ký 4 bản hợp đồng và gửi cho T ký. Sau khi nhận được hợp đồng ngày 09/3/2020, thấy có sự bất thường về giá, ngày 17/3/2020 T đã gửi email cho E xác nhận. T yêu cầu E làm thêm Phụ lục hợp đồng mới tính theo giá của năm 2019, E đồng ý. Đồng thời nội dung trên phù hợp với nội dung trao đổi tại các thư điện tử (email) giữ Eh và T cụ thể ngày 24/3/2020 E có phản hồi không chấp nhận Phụ lục hợp đồng (theo E về thời hạn hợp đồng là 01 năm, đơn giá do E quyết định (là giá đã thỏa thuận ngày 26/02/2020), số lượng gia công do E quyết định). Cho đến ngày 28/3/2020 T đã gửi cho E bản Phụ lục hợp đồng để điều chỉnh bổ sung điều 5,6,7 của hợp đồng số 01/2020 (BL 287). Cùng ngày 28/3/2020 và ngày 30/3/2020 E phản hồi về việc thực hiện theo giá E đưa ra ngày 26/02/2020. Tuy nhiên, đến ngày 08/4/2020, ngày 05/5/2020 phía T vẫn xuất hóa đơn và đề nghị E thanh toán theo đơn giá T tự điều chỉnh tăng gấp 10 lần, E từ chối nhận hóa đơn và ngừng giao hàng cho T gia công ngày 11/4/2020, gửi emai ngày 13/4, 8/5, 9/5 đề nghị tính lại giá.
Như vậy, Hợp đồng gia công hàng hóa số 01/2020/HĐGCHH-E-T ngày 01/3/2020 mặc dù các bên đã ký, nhưng lại không đúng với ý chí, nguyện vọng của các bên về các điều khoản chính của hợp đồng, về giá cả, về số lượng đơn hàng, đặc biệt là đơn giá tăng bất thường gấp 10 lần. Sau khi phát hiện sai sót trong hợp đồng, các bên đã trao đổi rất nhiều lần để đi đến thống nhất và sửa đổi hợp đồng nhưng cả hai đều không đạt được thỏa thuận để đi đến ký kết một hợp đồng mới hoặc phụ lục hợp đồng điều chỉnh bổ sung. Do đó, Hợp đồng số 01/2020/HĐGCHH-E-T ngày 01/3/2020 giữa Công ty TNHH Dịch vụ kỹ thuật T và Công ty TNHH E HCM V không có giá trị thực hiện. Từ đó cho thấy kháng cáo của bị đơn Công ty TNHH E HCM V là có cơ sở chấp nhận.
(ii) Đối với số tiền gia công các bên đã thực hiện:
Quá trình giải quyết đánh giá chứng cứ của cấp sơ thẩm: Cấp sơ thẩm không đối chiếu xem xét giá cả có sự mâu thuẫn giữa hợp đồng và phụ lục hợp đồng (trang 3 và trang 7 của hợp đồng), không tham khảo giá hợp đồng cùng thời điểm phía Eh ký với công ty khác, hay giá của gia công sản phẩm cùng loại của năm 2019, để xác định số tiền công mà phía T đã gia công để buộc phía bị đơn là E phải thanh toán mà cấp sơ thẩm chỉ căn cứ vào hợp đồng và phụ lục hợp đồng do nguyên đơn cung cấp, cùng với các hóa đơn phía nguyên đơn xuất ra có sự tăng gấp 10 lần của từng sản phẩm để buộc phía bị đơn thanh toán là không đúng quy định của pháp luật.
2. Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 07/2019/KDTM-PT ngày 04/4/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng gia công.
Nội dung hủy án:
(i) Nguyên đơn cho rằng việc giao dịch để ký hai hợp đồng trên là do nhân viên của mình là bà Hải L trao đổi nội dung và gửi mail cho nhân viên của bị đơn, các mail nguy n đơn xuất trình thể hiện xuyên suốt quá trình giao dịch với các nhân viên bị đơn gồm nhân viên L1 (loi**ungqn9@gmail.com) ĐT: 01652.288.XXX - 0938.013.XXX; Hoài T (hoai**uong7tvk38@gmail.com) – 0964.717.XXX, 098.346.9XXX và Mr. C – người cho các đơn vị khác gia công hàng (bút lục 120). Nhưng Tòa án cấp sơ thẩm chỉ mời làm việc yêu cầu cung cấp thông tin bà Hoài T (các bên cho rằng bà T đã nghỉ việc, kh ng có địa chỉ liên hệ) mà chưa làm rõ những người li n quan khác như bà L1, ông C là chưa có căn cứ vững chắc xác định giữa hai bên có giao dịch hai hợp đồng trên.
(ii) Kiểm tra các phiếu xuất kho: Tất cả phiếu xuất kho chỉ có ký tên người lập phiếu và người nhận hàng mà không ghi họ tên người cụ thể. Bị đơn cho rằng bị đơn không có giao dịch với nguyên đơn vậy người nhận hàng trong các phiếu xuất kho do nguyên đơn xuất trình có phải là người của công ty bị đơn hay không? Tòa án cấp sơ thẩm chưa làm rõ vấn đề này.
(iii) Tòa án cấp sơ thẩm sử dụng lời khai của nhân chứng là người vận chuyển Phạm Tuấn AV về việc ghi nhận ông AV có lái xe để giao lô hàng thành phẩm của Công ty YJ cho Công ty AK, nhưng sau đó trong hồ sơ vụ án không thể hiện việc triệu tập lại ông AV đến tham gia phiên tòa mà xét xử vắng mặt ông AV. Trong khi có sự mâu thuẫn trong lời khai của nhân chứng nhưng Tòa án cấp sơ thẩm chưa làm rõ, cụ thể: Ngày 15/3/2017 (bút lục 17), ông AV có chuyển hàng thành phẩm từ Công ty YJ đến Công ty AK, là không phù hợp với việc nguy n đơn trình bày ngày nguy n đơn giao hàng cho bị đơn là ngày 03/5/2017 tại Thông báo của Công ty YJ đề nghị Công ty AK thanh toán tiền hàng đợt 1 (bút lục 10); Danh mục nguyên liệu (bút lục 127) thể hiện Công ty AK giao cho Công ty YJ gia công (tài liệu Công ty YJ tự cung cấp) thì ngày 23/3/2017, Công ty AK cũng mới giao vật tư, nguyên liệu qua cho Công ty YJ. Vậy, ngày 15/3/2017 Công ty YJ lấy đâu ra sản phẩm gia công để xuất cho Công ty AK?
(iv) Theo Hợp đồng gia công hàng may mặc số 01GC/AK-YJ/2017 ngày 31/3/2017; Hợp đồng gia công hàng may mặc số 02GC/AK-YJ/2017 ngày 14/4/2017 thì điều kiện để thanh toán là có Biên bản thanh lý nguyên phụ liệu giữa hai bên nhưng Tòa án cấp sơ thẩm chưa yêu cầu nguyên đơn cung cấp là điều tra chưa đầy đủ.
(v) Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm sử dụng các hồ sơ sao y xuất khẩu xác nhận Công ty AK có xuất các mã hàng UBTA524A, UBTA521A, EBTA440C ra nước ngoài từ ngày 01/4/2017 đến ngày 29/4/2017 để kết luận lô hàng nguyên đơn khởi kiện bị đơn đòi tiền gia công là những lô hàng này. Xét thấy: Đối chiếu về thời gian giao hàng và số lượng hàng hóa tại các phiếu xuất kho đã liệt kê tại tiểu mục [2.2] với thời gian kê khai hàng hóa và số lượng hàng hóa xuất khẩu tại 08 bộ hồ sơ sao y xuất nhập khẩu của Công ty AK (theo Công văn số 3007/GC-TH ngày 20 tháng 9 năm 2018 của Chi cục Hải quan quản lý hàng gia công thuộc Cục Hải quan Thành phố Hồ Chí Minh) đều không phù hợp; đồng thời tại phiên tòa phúc thẩm nguy n đơn đã khẳng định rằng các tờ khai trên chỉ chứng minh cho việc bị đơn đã xuất những mã hàng mà nguy n đơn có sản xuất, gia công, còn các tờ khai xuất nhập khẩu của Công ty AK trong 08 bộ hồ sơ trên không phải là tờ khai của số hàng mà nguy n đơn đã giao cho bị đơn. Như vậy, chứng cứ Tòa án cấp sơ thẩm sử dụng trong trường hợp này là vi phạm Điều 93 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
3. Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 32/2019/KDTM-PT ngày 29/11/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng gia công và yêu cầu tuyên hợp đồng vô hiệu.
Nội dung hủy án:
Các yêu cầu 2, 3, 4 của nguyên đơn tại mục [2.1] liên quan đến việc bồi thường thiệt hại, khi giải quyết vụ án phải áp dụng các qui định tại các Điều 302; 303; 304; 306 và 307 của Luật Thương mại. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường là phải có thiệt hại thực tế. Nghĩa là phải xác định giá trị thực tế của dây chuyền inpad hiện nay. Tuy nhiên Tòa án cấp sơ thẩm đã không thực hiện việc thẩm định giá đối với dây chuyền inpad là không đúng với qui định tại khoản 2 Điều 303 của Luật Thương mại.
Thiếu sót của Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm đã khắc phục như sau: Ra quyết định xem xét thẩm định tại chỗ; quyết định yêu cầu nguyên đơn cung cấp hồ sơ báo cáo tài chính để xác định phần khấu hao máy móc nhưng nguyên đơn có văn bản từ chối hai vấn đề trên. Do vậy, Tòa án cấp phúc thẩm không thể khắc phục được những sai sót của Tòa án cấp sơ thẩm.
4. Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 01/2020/KDTM-PT ngày 16/01/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai về tranh chấp hợp đồng gia công.
Nội dung hủy án:
(i) Về tư cách đương sự: Tòa án cấp sơ thẩm xác định nguyên đơn Doanh nghiệp tư nhân Hoàng Hải L là không đúng, cần phải xác định nguyên đơn trong vụ án này là bà Trần Thị Mỹ N – Chủ Doanh nghiệp tư nhân Hoàng Hải L.
(ii) Về nội dung kháng cáo:
Ngày 13 tháng 12 năm 2019, Tòa án nhân dân thành phố kánhmở phiên tòa xét xử vụ án. Tại phiên tòa, ông Thiêm Diên Th đã xuất trình các giấy tờ gồm: Đơn yêu cầu luật sư, thẻ Luật sư, giấy giới thiệu của Văn phòng Luật sư và đơn đề nghị hoãn phiên tòa của Luật sư nhưng Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm không chấp nhận tư cách người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn Công ty TNHH H Việt Nam của ông Thiêm Diên Th và vẫn tiến hành phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án không có sự tham gia của ông Thiêm Diên Th. Việc Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận ông Thiêm Diên Th là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn Công ty TNHH H Việt Nam (Biên bản thảo luận – BL 106) là trái quy định tại Điều 75 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 vì ông Thiêm Diên Th đã xuất trình cho Tòa án đầy đủ các giấy tờ cần thiết theo theo quy định tại khoản 2 Điều 27 của Luật luật sư để được làm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn Công ty TNHH H Việt Nam. Điều 70 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 về quyền, nghĩa vụ của đương sự quy định: “Đương sự có quyền, nghĩa vụ ngang nhau khi tham gia tố tụng. Khi tham gia tố tụng, đương sự có quyền, nghĩa vụ sau đây: ... 13. Tự bảo vệ hoặc nhờ người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình;...”
Như vậy, việc Tòa án cấp sơ thẩm không chấp ông Thiêm Diên Th là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Công ty TNHH H Việt Nam và tiến hành phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án không có sự tham gia của ông Thiêm Diên Th đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của Công ty TNHH H Việt Nam. Do đó, chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của Công ty TNHH H Việt Nam, hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
5. Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 27/2022/KDTM-PT ngày 12/01/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về tranh chấp hợp đồng gia công hàng hóa và dịch vụ.
Nội dung hủy án:
(i) Xét về quan hệ tranh chấp: Tại đơn khởi kiện ngày 15/5/2019, bản tự khai ngày 08/7/2019, biên bản hòa giải ngày 24/10/2019, nguyên đơn xác định giữa Công ty C và Công ty D có thỏa thuận cung cấp, giao nhượng hàng hóa và khai thác chuỗi cửa hàng. Nguyên đơn đã cung cấp các chứng cứ như: Thỏa thuận ngày 19/11/2015 về việc thỏa thuận giải quyết công nợ + tồn kho D + CV + P1, Thông báo về việc đề nghị giải quyết chốt công nợ, hàng hóa, hóa đơn chứng từ và các vấn đề còn tồn đọng giữa các bên ngày 23/8/2018, Thông báo về việc yêu cầu xác nhận, quyết toán và thanh toán nợ ngày 28/8/2018, Thông báo về việc chốt số liệu và yêu cầu thanh toán nợ cho Công ty TNHH C và các vấn đề liên quan ngày 15/12/2018. Nội dung được nêu trong các thông báo trên đều thể hiện mối quan hệ mà hai đại diện theo pháp luật của công ty thỏa thuận là góp vốn và hợp tác kinh doanh phát triển thương hiệu Borani bằng mô hình kinh doanh song hành thương hiệu Borani – Piere Cardin tại các trung tâm thương mại. Do quá trình hợp tác không thành công nên các bên thống nhất thỏa thuận giải quyết công nợ và tồn kho bằng thỏa thuận ngày 19/11/2015. Bị đơn xác nhận hai công ty có hợp tác thông qua việc ông T đưa hàng hóa nhãn hiệu Borani của Công ty C sang cho Công ty D kinh doanh, là hình thức ký gửi bán hàng hóa. Như vậy, căn cứ vào lời trình bày của bị đơn và các chứng cứ có trong hồ sơ thì việc Công ty C giao hàng hóa cho Công ty D kinh doanh là sự thỏa thuận góp vốn, hợp tác, ký gửi hàng hóa kinh doanh giữa hai đại diện theo pháp luật của công ty là ông T và ông P. Điều này đã được thể hiện tại thỏa thuận ngày 19/11/2015.
Ngoài ra, các bên còn có thỏa thuận gia công bằng Hợp đồng gia công ngày 14/11/2014 với các bên tham gia là Công ty TNHH C, Công ty cổ phần D và Công ty TNHH P nhưng trong quá trình giải quyết, nguyên đơn không xác định yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn phát sinh từ hợp đồng gia công nêu trên. Tòa án sơ thẩm cũng chưa xác định khoản công nợ nào trong yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn xuất phát từ hợp đồng gia công nhưng lại nhận định quan hệ tranh chấp là tranh chấp hợp đồng gia công và dịch vụ là chưa chính xác. Vì vậy cần phải thu thập thêm chứng cứ để xác định đúng quan hệ tranh chấp.
(ii) Tại bản án sơ thẩm, Tòa án nhân dân Quận 3 căn cứ vào các bảng Tổng hợp quyết toán công nợ ID – cập nhật ngày 20/10/2015, Tổng hợp quyết toán công nợ D – cập nhật ngày 20/7/2018 (Theo 20/10/2015), Phụ lục 2: Tổng hợp quyết toán công nợ D và P1 (Theo số liệu 20/10/2015) để xác định bị đơn còn nợ nguyên đơn và buộc bị đơn phải trả cho nguyên đơn nợ gốc và lãi phát sinh theo bảng kê chi tiết ngày 23/4/2021 là 139.318.686 đồng. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy các tài liệu chứng cứ nêu trên chưa đủ căn cứ để Tòa án sơ thẩm xác định bị đơn còn nợ nguyên đơn. Trong các chứng cứ nguyên đơn cung cấp thì không có văn bản, tài liệu nào thể hiện việc nguyên đơn và bị đơn đã đối chiếu số liệu công nợ hoặc có văn bản xác nhận công nợ. Tất cả các bảng tổng hợp quyết toán nêu trên chưa được người đại diện theo pháp luật hoặc người có thẩm quyền khác của các bên công ty xác nhận nên không thể làm căn cứ cho rằng bị đơn nợ nguyên đơn. Ngoài ra, Toà án sơ thẩm chưa làm rõ nghĩa vụ đối trừ giữa nguyên đơn và bị đơn.
Tại Phụ lục 2: Tổng hợp quyết toán công nợ D và P1 (Theo số liệu 20/10/2015) và “Bảng kê chi tiết ngày 23/4/2021 về các khoản Công ty D phải trả cho Công ty C” có liệt kê các khoản như “Borani STP – cọc của 2 hợp đồng CV + Tâm – Parkson trừ do D kinh doanh lỗ, Borani Hùng Vương – cọc HĐ ĐTHT – Parkson trừ do kinh doanh lỗ từ tháng 12/2014 (mục II)”; “D nhận tiền quyết toán của CV trước 12/2014 từ Parkson không thông báo”, “Chi phí mặt bằng còn phân bổ- D nhận mặt bằng (Robin Hà Nội, Borani Cantavil, Borani Trường Sơn); “Chi phí đặt cọc còn lại Parkson và Robin phải trả CV nhưng chưa chốt được vì D giữ quyền kinh doanh”, “Chi phí chi hộ các cửa hang từ 12/2014 đến tháng 7/2015”. Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu đòi các khoản nợ này nhưng không cung cấp được những chứng cứ liên quan cần thiết như hóa đơn, hợp đồng thuê gian hàng tại trung tâm thương mại… Mặc dù trong suốt quá trình giải quyết vụ án, bị đơn yêu cầu nguyên đơn chứng minh nhưng trong hồ sơ không thể hiện nguyên đơn đã giao nộp chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu này. Ngoài ra, nguyên đơn cũng không chứng minh được cơ sở cho khoản nợ hoa hồng.
(iii) Tại phiên tòa phúc thẩm, bị đơn đã thừa nhận số liệu của các mục I: Hàng hóa, mục D: Giảm trừ công nợ sau khi Chính Việt nhận hàng trả về từ D và mục E: Túi, ví nhận về từ D theo giá bán của D nên các khoản này được Hội đồng xét xử công nhận và không phải xét lại. Tuy nhiên đối với các khoản chi phí mặt bằng, hoa hồng thì cần phải xác định giữa nguyên đơn và bị đơn có sự thỏa thuận về việc thuê hay chuyển nhượng mặt bằng kinh doanh tại trung tâm thương mại hay không; chi phí hoa hồng xuất phát từ quan hệ hợp đồng nào hoặc từ sự thỏa thuận nào khác của nguyên đơn và bị đơn. Từ đó mới có căn cứ để xem xét chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu của các đương sự. Tòa án sơ thẩm chưa yêu cầu nguyên đơn chứng minh đầy đủ cho các yêu cầu này nhưng lại chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn là còn thiếu sót trong việc thu thập và đánh giá chứng cứ.
6. Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 08/2018/KDTM-PT ngày 23/11/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh về tranh chấp gia công.
Nội dung sửa án:
(i) Về số tiền đặt cọc 300.000.000 đồng mà nguyên đơn đã chuyển cho bị đơn:
…
Quá trình thực hiện hợp đồng, anh V đã đặt cọc cho công ty số tiền 300.000.000đ 13/5/2022 đặt 100 triệu đồng; ngay sau khi ký hợp đồng đặt 200 triệu đồng (Điều 2) và yêu cầu bên công ty phải có bản vẽ thi công trong hạn 30 ngày kể từ ngày ký nhưng công ty không cung cấp (Điều 3 hợp đồng). Cho đến khi anh V khởi kiện ra Tòa án nhân dân huyện H (đơn khởi kiện ngày 14/02/2023) thì ngày 09/2/2023 bên phía công ty mới cung cấp bản vẽ thi công, tuy nhiên trong bản vẽ thi công K không phù hợp với dự toán trong hợp đồng mà hai biên đã ký kết: sai số cột, trong dự toán, sai kích thước chi tiết trong dự toán và chiều cao tkhông thủy nhà xưởng không đạt 8m như hai bên đã thỏa thuận. Tại biên bản nghiệm thu ngày 3/10/2022 thì khối lượng của bộ khung nhà xưởng là 63.200 tăng hơn so với dự toán ban đầu là 13 tấn tương ứng với 30,25%; chênh lệch vượt quá 10 lần so với cam kết trong bản dự toán là 3%. Mặt khác ông K đại diện công ty cho rằng bộ khung anh V đặt công ty ông làm trước đó công ty ông đã làm. Nhưng khi hội đồng thẩm định đến công ty để xem xét thẩm định bộ khung mà ông K cho rằng đang hoàn thiện để lắp đặt nhà xưởng cho anh V, nhưng tại công ty hội đồng xem xét thẩm định không thấy bộ khung nhà xưởng nào ở công ty của ông K . Như vậy sau khi không thỏa thuận được như trong hợp đồng gia công và bảng dự toán thì phía công ty không gia công nữa.
Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xác định bị đơn có lỗi trong việc thực hiện hợp đồng là đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên, cần phải xác định giao dịch dân sự giữa các bên được chấm dứt và giải quyết hậu quả của việc chấm dứt giao dịch dân sự. Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh V, tuyên vô hiệu hợp đồng mua bán và gia công nhà xưởng số 2705/2022/HĐMBGCLD/MR V – CKBQP/2022 là không phù hợp với quy định của pháp luật.
(ii) Về yêu cầu đòi số tiền lãi với mức lãi suất 10%/năm đối với số tiền mà nguyên đơn đã đặt cọc cho bị đơn:
HĐXX xét thấy: Trong hợp đồng mua bán và gia công nhà xưởng được giao kết giữa nguyên đơn và bị đơn, các bên không có thỏa thuận về số tiền lãi 10% đối với số tiền đặt cọc mà chỉ thỏa thuận về việc phạt vi phạm hợp đồng với số tiền 10% giá trị hợp đồng. Như đã phân tích ở trên, Tòa án xác định bị đơn có lỗi trong việc thực hiện hợp đồng dẫn đến hợp đồng không thể thực hiện được nên đã chấp nhận yêu cầu đòi số tiền phạt hợp đồng tương ứng với 10% giá trị hợp đồng. Vì vậy, việc nguyên đơn yêu cầu đòi số tiền lãi 10%/năm với số tiền đặt cọc 300.000.000 đồng là không phù hợp với quy định của pháp luật.
Hội đồng xét xử chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn, không chấp nhận yêu cầu đòi số tiền lãi với mức lãi suất 10%/năm đối với số tiền mà nguyên đơn đã đặt cọc cho bị đơn là 30.000.000 đồng.
7. Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 05/2018/KDTM-PT ngày 23/01/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng gia công hàng hóa.
Nội dung sửa án:
Về nội dung: Công ty TNHH VTE và Công ty TNHH TNP thống nhất: Hai công ty có ký Hợp đồng số 23/2016 ngày 04-01-2016 về việc gia công, ghép hoa sản phẩm ván các loại và số tiền gia công Công ty TNHH TNP chưa thanh toán cho Công ty TNHH VTE như sau:
- Tiền hàng gia công tháng 01/2017 là 236.658.633 đồng (không bao gồm thuế và chưa xuất hóa đơn).
- Tiền hàng gia công tháng 4/2017 là 916.902.851 đồng (đã xuất hóa đơn và bao gồm 10% thuế giá trị gia tăng).
- Tiền hàng gia công tháng 6/2017 là 5.021.676 đồng (không bao gồm thuế; chưa xuất hóa đơn).
Tổng cộng: 1.158.583.160 đồng.
Công ty TNHH TNP đồng ý thanh toán tiền hàng gia công tháng 4/2017 là 916.902.851 đồng và tiền hàng gia công tháng 6/2017 là 5.021.676 đồng cho Công ty TNHH VTE.
Đây là những chứng cứ không phải chứng minh theo quy định của Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Đối với tiền hàng gia công tháng 01/2017, Công ty TNHH TNP không đồng ý thanh toán. Công ty TNHH TNP cho rằng: Khoản tiền này là khoản tiền gia công lô hàng của tháng 11 năm 2016 và số hàng này Công ty TNHH VTE đã gia công không đúng yêu cầu; Công ty TNHH TNP đã yêu cầu Công ty TNHH VTE sửa chữa nhưng việc sửa chữa vẫn không đạt yêu cầu. Xét thấy, Công ty TNHH TNP không cung cấp được chứng cứ chứng minh Công ty TNHH VTE gia công lô hàng tháng 11 năm 2016 bị hư hỏng nên Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của Công ty TNHH VTE, buộc Công ty TNHH TNP thanh toán số tiền hàng gia công tháng 01/2017, tháng 4/2017 và 6/2017 với tổng số tiền 1.158.583.160 đồng; đồng thời buộc bị đơn phải nộp án phí dân sự sơ thẩm là có căn cứ. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm không yêu cầu nguyên đơn xuất hóa đơn giá trị gia tăng đối với số tiền hàng gia công tháng 01/2017 và tháng 6/2017 cho bị đơn là chưa phù hợp với nguyên tắc kế toán. Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện hợp pháp của nguyên đơn đã tự nguyện xuất hóa đơn giá trị gia tăng đối với số tiền hàng gia công tháng 01/2017 là 236.658.633 đồng và tháng 6/2017 là 5.021.676 đồng (tổng cộng 241.680.309 đồng, đã bao gồm 10% thuế giá trị gia tăng) nên cần sửa án sơ thẩm về phần này.
8. Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 29/2019/KDTM-PT ngày 21/11/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng gia công nuôi gà.
Nội dung sửa án:
Công ty C được sáp nhập vào Công ty A ngày 09/01/2019 theo Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh ngày 25/06/2019, đăng ký thay đổi ngày 09/01/2019. Theo Hợp đồng sáp nhập ngày 28/12/2018, Công ty A nhận toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của bên bị sáp nhập Công ty C. Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện bị đơn trình bày Công ty A đồng ý kế thừa tất cả quyền và nghĩa vụ của Công ty C bao gồm cả quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng gia công nuôi gà đã được Tòa án nhân dân huyện Bàu Bàng xét xử theo Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 03/2019/KDTMST ngày 12/4/2019. Theo điểm c khoản 2 Điều 74 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định trường hợp tổ chức sáp nhập thì tổ chức tiếp nhận quyền, nghĩa vụ của tổ chức đó tham gia tố tụng. Vì vậy, việc đại diện bị đơn yêu cầu cho Công ty A được kế thừa quyền và nghĩa vụ của Công ty C là phù hợp pháp luật nên Hội đồng xét xử ghi nhận và sửa bản án sơ thẩm về tư cách tố tụng của bị đơn cho phù hợp với việc kế thừa quyền, nghĩa vụ của đương sự theo quy định.
9. Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 11/2017/KDTM-PT ngày 06/9/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp về tranh chấp hợp đồng gia công.
Nội dung sửa án:
Đối với Công ty cổ phần A yêu cầu Công ty cổ phần thuỷ sản B phải trả lãi do chậm thanh toán tiền nợ gia công theo quy định tại Điều 306 của Luật Thương mại 2005, tính từ ngày 01/01/2015 đến ngày 01/12/2016 là 23 tháng, mức lãi 1,125%/tháng cụ thể: 1.144.213.009 đồng x 1,125% x 23 tháng = 296.065.116 đồng. Xét thấy, việc yêu cầu của Công ty cổ phần A có một phần cơ sở, vì yêu cầu trả lãi trong trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền, nhưng phải áp dụng theo quy định tại Điều 357 và Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015 mới đúng, đối với việc tính lãi suất của các bên đương sự phải được xem xét điều chỉnh lại không vượt quá 20% năm, trong trường hợp này các bên không xác định rõ lãi suất và có tranh chấp, thì được xác định bằng 50% mức lãi suất được giới hạn, có nghĩa là 10%/năm của khoản tiền nợ tương đương 0,83%/tháng cụ thể như sau: 1.144.213.009 đồng x 0,83% x 23 tháng = 218.430.263 đồng. Như vậy, Công ty cổ phần thuỷ sản B có nghĩa vụ trả lãi cho Công ty cổ phần A với số tiền là 218.430.263 đồng, cùng với số tiền nợ 1.144.213.009 đồng, tổng cộng 1.362.643.272 đồng là có căn cứ. Do điều chỉnh lại số tiền lãi theo quy định, nên Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa bản án Kinh doanh thương mại sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố S.
10. Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 05/2022/KDTM-PT ngày 26/9/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre về tranh chấp hợp đồng gia công.
Nội dung sửa án:
(i) Công ty A thực hiện việc in tài liệu và nhận thù lao trên cơ sở đặt hàng của Doanh nghiệp B và chỉ chịu trách nhiệm về số lượng in, chủng loại giấy, quy cách, màu sắc… mà Doanh nghiệp B yêu cầu. Sau khi tài liệu được in xong, Doanh nghiệp B nhận tài liệu và thanh toán thù lao, các chi phí hợp lý cho Công ty A và chịu trách nhiệm đối với tính hợp pháp về quyền sở hữu trí tuệ của tài liệu đặt in. Như vậy, xét về bản chất, tranh chấp phát sinh giữa các bên được xác định là “Tranh chấp hợp đồng gia công”.
Cấp sơ thẩm xác định đây là vụ án về “Tranh chấp hợp đồng mua bán” là có sai sót. Tuy nhiên, trong vụ án này, việc xác định không đúng quan hệ pháp luật tranh chấp như nêu trên không làm ảnh hưởng đến việc giải quyết nội dung vụ án, việc áp dụng pháp luật cũng như không ảnh hưởng đến quyền lợi và nghĩa vụ của các bên đối với nhau.
(ii) Về lãi suất:
Tại phiên tòa, bị đơn cho rằng phương thức thanh toán là trả dần. Tuy nhiên, tại Biên bản xác nhận nợ ngày 18/01/2018 được lập giữa Công ty A với ông Võ T – Chủ Doanh nghiệp B có nội dung xác nhận số dư nợ tính đến ngày 31/12/2017 mà Doanh nghiệp B phải trả cho Công ty A là 9.428.098.221 đồng, không có thỏa thuận trả dần. Đồng thời, tại các Bản nghiệm thu thanh lý hợp đồng được lập giữa Công ty A với ông Võ T – Chủ Doanh nghiệp B từ năm 2018 đến năm 2020 đều có thỏa thuận thanh toán ngay sau khi nhận hàng. Do Doanh nghiệp B vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên Công ty A yêu cầu trả lãi suất trên số tiền chậm thanh toán là có căn cứ.
Công ty A yêu cầu tính lãi suất của số tiền 8.685.447.921 đồng từ ngày 18/01/2020 đến ngày 30/6/2022 và lãi suất của số tiền 7.590.000 đồng từ ngày 18/03/2020 đến ngày 30/6/2022 theo mức lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường là 1.18%/tháng, tổng cộng là 3.015.591.678 đồng, thấy rằng:
Tại Điều 306 Luật Thương mại năm 2005 quy định: “Trường hợp bên vi phạm hợp đồng chậm thanh toán tiền hàng hay chậm thanh toán thù lao dịch vụ và các chi phí hợp lý khác thì bên bị vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả đó theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”.
Trong trường hợp này, ông Võ T – Chủ Doanh nghiệp B đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán cho Công ty A như đã phân tích nêu trên. Do đó, Công ty A yêu cầu ông Võ T – Chủ Doanh nghiệp B phải trả tiền lãi trên số tiền 8.693.037.921 đồng là phù hợp với quy định của pháp luật.
Về xác định lãi suất chậm trả, theo quy định tại Điều 11 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm, theo đó “Trường hợp hợp đồng thuộc phạm vi điều chỉnh tại Điều 306 của Luật Thương mại năm 2005 thì khi xác định lãi suất chậm trả đối với số tiền chậm trả, Tòa án căn cứ vào mức lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường của ít nhất 03 (ba) ngân hàng thương mại (Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam,…) có trụ sở, chi nhánh hoặc phòng giao dịch tại tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi Tòa án đang giải quyết, xét xử có trụ sở tại thời điểm thanh toán (thời điểm xét xử sơ thẩm) để quyết định mức lãi suất chậm trả, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”.
Cấp sơ thẩm xác định 03 Ngân hàng có trụ sở trên địa bàn thành phố X gồm: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam và Ngân hàng Thương mại Cổ phần Kiên Long để xem xét áp dụng lãi suất chậm trả đối với số tiền chậm trả là phù hợp với quy định của pháp luật. Tuy nhiên, về xác định mức lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường là chưa chính xác.
Cụ thể, mức lãi suất nợ quá hạn của 03 Ngân hàng có trụ sở trên địa bàn thành phố X như sau: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam là 14,25%/năm, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam là 14,25%/năm và Ngân hàng Thương mại Cổ phần Kiên Long là 18,68%/năm.
Như vậy, mức lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường để tính lãi suất chậm trả trong trường hợp này là (14,25% + 14,25% + 18,68%) : 3 = 15,7%/năm.
Tiền lãi được tính như sau:
- Đối với số tiền 8.685.447.921 đồng, lãi suất tính từ ngày 18/01/2020 đến ngày 30/6/2022 (là 02 năm 05 tháng 12 ngày):
8.685.447.921 đồng x (02 năm 05 tháng 12 ngày) x 15,7%/năm = 3.340.857.542 đồng.
- Đối với số tiền 7.590.000 đồng, lãi suất tính từ ngày 18/3/2020 đến ngày 30/6/2022 (là 02 năm 03 tháng 12 ngày): 7.590.000 đồng x (02 năm 03 tháng 12 ngày) x 15,7%/năm = 2.720.888 đồng.
Tổng số tiền lãi là 3.340.857.542 đồng + 2.720.888 đồng = 3.343.578.430 đồng.
Như vậy, buộc ông Võ T – Chủ Doanh nghiệp B có nghĩa vụ thanh toán cho Công ty A số tiền nợ gốc là 8.693.037.921 đồng 3.343.578.430 đồng tiền lãi, tổng cộng là 12.036.616.351 đồng.