Tổng hợp 10 bản án hủy, sửa về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực đất đai liên quan đến việc thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ tái, định cư

MỤC LỤC

1. Bản án hành chính phúc thẩm số 642/2022/HC-PT ngày 25/10/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về việc khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính

2. Bản án hành chính phúc thẩm số 01/2024/HC-PT ngày 22/4/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp về việc khiếu kiện hành vi hành chính

3. Bản án hành chính phúc thẩm số 584/2023/HC-PT ngày 19/5/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về việc khiếu kiện quyết định hành chính về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất

4. Bản án hành chính phúc thẩm số 468/2022/HC-PT ngày 15/8/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về việc khiếu kiện quyết định hành chính

5. Bản án hành chính phúc thẩm số 01/2023/HC-PT ngày 04/01/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang về việc khiếu kiện hành vi hành chính

6. Bản án hành chính phúc thẩm số 226/2019/HC-PT ngày 17/5/2019 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh về việc khiếu kiện quyết định hành chính trong quản lý nhà nước về đất đai

7. Bản án hành chính phúc thẩm số /2023/HC-PT ngày 27/02/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang về việc khiếu kiện hành vi hành chính

8. Bản án hành chính phúc thẩm số 11/2024/HC-PT ngày 05/4/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về việc khiếu kiện quyết định Hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai

9. Bản án hành chính phúc thẩm số 02/2023/HC-PT ngày 07/02/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu về việc khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai

10. Bản án hành chính phúc thẩm số 88/2022/HC-PT ngày 24/02/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về việc khiếu kiện quyết định hành chính

 

1. Bản án hành chính phúc thẩm số 642/2022/HC-PT ngày 25/10/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về việc khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính

Nội dung hủy án:

(i) Người khởi kiện yêu cầu Tòa án: Xác định “hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân Quận X về việc không phổ biến đồ án quy hoạch liên quan đến Quyết định số 1997/QĐ- UB về việc thu hồi và giao đất xây dựng Khu đô thị mới Y ngày 10/5/2002”, xác định “hành vi hành chính của Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận X về việc sử dụng bản đồ bất hợp pháp để áp đặt nhà và đất số D19/10D Khu phố a, phường B, Quận X nằm ngoài Quyết định 367 của Thủ tướng Chính phủ và ngoài Quyết định 13585 của Kiến trúc sư trưởng vào danh sách các hộ dân bị thu hồi theo Quyết định 1997 của Ủy ban nhân dân Thành phố và Bản đồ 02/BB-BQL có ranh giới dự kiến giao đất 930 ha để ban hành các quyết định về điều chỉnh, di chuyển dân cư, quyết định bồi thường. quyết định cưỡng chế và thông báo thời gian cưỡng chế đối với hộ D19/10D Khu phố a, phường B, Quận X” là trái pháp luật. Tòa án nhân dân Quận X đã thụ lý yêu cầu khởi kiện hai hành vi trên trên nhưng Bản án sơ thẩm không nêu nội dung yêu cầu khởi kiện hành vi hành chính của người khởi kiện, không nhận định hai hành vi trên có phải là hành vi hành chính bị kiện (thuộc đối tượng khởi kiện của vụ án hành chính) hay không, tuy nhiên trong phần quyết định của bản án đã đình chỉ đối với yêu cầu này và căn cứ tạm đình chỉ cũng không được ghi trong bản án là vi phạm quy định Điều 194 Luật Tố tụng hành chính năm 2015.

(ii) Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 26/9/2022, người bảo vệ của Ủy ban nhân dân thành phố T cung cấp cho Tòa án Quyết định số 893/QĐ-UBND ngày 27/3/2019 của Ủy ban nhân dân Quận X. Quyết định số 6289/QĐ-UBND-TTr ngày 22/12/2017 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận X nhưng người khởi kiện không rút đơn khởi kiện và không rút yêu cầu kháng cáo. Xét thấy, đây là tình tiết mới phát sinh sau phiên tòa sơ thẩm. Theo quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 235 thì Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án để xét xử sơ thẩm lại.

2. Bản án hành chính phúc thẩm số 01/2024/HC-PT ngày 22/4/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp về việc khiếu kiện hành vi hành chính

Nội dung hủy án 

Xét quá trình khởi kiện của ông Phúc A nhận thấy:

Ngày 23/3/2022, ông Võ Phúc A nộp đơn khởi kiện đến Tòa án nhân dân thành phố Cao Lãnh yêu cầu Tòa án giải quyết buộc UBND xã H, thành phố C phải bồi thường tiền tương đương với giá trị quyền sử dụng đất mà công trình đã xây dựng trên phần đất của ông số tiền là 200.000.000 đồng.

Ngày 11/8/2022, ông Võ Phúc A nộp đơn khởi kiện sửa đổi, bổ sung yêu cầu tuyên hành vi hành chính cưỡng chế quyền được sử dụng đất xảy ra hồi lúc 08 giờ ngày 17/10/2018 do Chủ tịch UBND xã H thực hiện là trái luật.

Ngày 27/8/2022 ông Võ Phúc A nộp đơn khởi kiện sửa đổi, bổ sung yêu cầu tuyên hành vi hành chính cưỡng chế quyền được sử dụng đất xảy ra hồi lúc 08 giờ ngày 17/10/2018 do Chủ tịch UBND xã H thực hiện là trái luật. Buộc Chủ tịch UBND xã H, thành phố C phải bồi thường giá trị quyền sử dụng đất mà công trình đã xây dựng trên phần đất của ông số tiền là 200.000.000 đồng.

Ngày 16/9/2022 ông Võ Phúc A nộp đơn khởi kiện sửa đổi, bổ sung vẫn giữ nguyên yêu cầu là tuyên hành vi hành chính cưỡng chế quyền được sử dụng đất xảy ra hồi lúc 08 giờ ngày 17/10/2018 do Chủ tịch UBND xã H thực hiện là trái luật. Buộc Chủ tịch UBND xã H, thành phố C phải bồi thường giá trị quyền sử dụng đất mà công trình đã xây dựng trên phần đất của ông số tiền là 200.000.000 đồng.

Theo quy định tại khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 116 Luật tố tụng hành chính:

“1. Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà cơ quan, tổ chức, cá nhân được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án hành chính bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện.

2. Thời hiệu khởi kiện đối với từng trường hợp được quy định như sau: a) 01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc”

Như vậy: Xác định ông Võ Phúc A đã biết và nhận được thông báo số 57/TB-UBND ngày 16/10/2018 về việc tổ chức bảo vệ thi công của Chủ tịch UBND xã H vào ngày 17/10/2018. Nhưng từ ngày 17/10/2018 đến ngày 23/3/2022 ông Phúc A mới nộp đơn khởi kiện đến Tòa án là đã hết thời hiệu khởi kiện theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 143 của Luật tố tụng hành chính.

Từ những phân tích, nhận định trên Hội đồng xét xử xét thấy theo đơn khởi kiện của ông Phúc A là yêu cầu Tòa án tuyên hành vi hành chính cưỡng chế quyền được sử dụng đất xảy ra hồi lúc 08 giờ ngày 17/10/2018 do Chủ tịch UBND xã H thực hiện là trái pháp luật, nhưng Bản án sơ thẩm số 02/2023/HC- ST ngày 30/9/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Cao Lãnh bác yêu cầu khởi kiện của ông Võ Phúc A về hành vi thông báo về việc tổ chức bảo vệ thi công ngày 17/10/2018 của Ủy ban nhân dân xã H, thành phố C là trái pháp luật, là không đúng yêu cầu khởi kiện của ông Phúc A. Tuy nhiên, việc yêu cầu tuyên hành vi cưỡng chế xảy ra ngày 17/10/2018 của ông Phúc A cũng đã hết thời hiệu khởi kiện, cho nên Hội đồng xét xử hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án là phù hợp với khoản 4 Điều 241 Luật tố tụng hành chính.

3. Bản án hành chính phúc thẩm số 584/2023/HC-PT ngày 19/5/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về việc khiếu kiện quyết định hành chính về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất

Nội dung hủy án 

(i) Đối tượng khởi kiện trong vụ án hành chính này là Quyết định giải quyết khiếu nại số 16495/QĐ-UBND ngày 21/12/2010 (về giải quyết khiếu nại lần đầu). Nội dung ông T khiếu nại liên quan đến Quyết định 6066/QĐ-UBND ngày 17/5/2010 của Ủy ban nhân dân Quận B về bồi thường trong lĩnh vực thu hồi đất. Trong thời gian chờ xét xử phúc thẩm, Ủy ban nhân dân thành phố T đã ban hành Quyết định số 4314/QĐ-UBND ngày 24/12/2020 điều chỉnh Quyết định bồi thường số 6066/QĐ-UBND ngày 17/5/2010 (điều chỉnh giảm số tiền bồi thường nhưng ông T được xét suất tái định cư).

Xét Quyết định 6066/QĐ-UBND ngày 17/5/2010 đã được Ủy ban nhân dân thành phố T điều chỉnh bởi Quyết định số 4314/QĐ-UBND ngày 24/12/2020 và Quyết định số 4314/QĐ-UBND hiện đang bị khởi kiện tại Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Xét thấy đây là tình tiết mới phát sinh trong quá trình Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết vụ án, để đảm bảo cho giải quyết vụ án triệt để, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, nghĩ nên hủy Bản án hành chính sơ thẩm 07/2018/HC-ST ngày 23/4/2018 của Tòa án nhân dân Quận 2 (nay là Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Đức) và chuyển hồ sơ cho Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh giải quyết theo thẩm quyền.

Tại phiên tòa phúc thẩm, người kháng cáo là ông Bùi Quốc T bổ sung yêu cầu kháng cáo là đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm tạm đình chỉ giải quyết vụ án, chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án này sang cơ quan điều tra để khởi tố vụ án do có dấu hiệu vi phạm pháp luật hình sự. Về chứng cứ chứng minh dấu hiệu vi phạm pháp luật hình sự của vụ án hành chính này, ông T trình bày sẽ cung cấp sau.

4. Bản án hành chính phúc thẩm số 468/2022/HC-PT ngày 15/8/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về việc khiếu kiện quyết định hành chính

Nội dung hủy án 

(i) Vụ án được Tòa án nhân dân Quận H xét xử sau ngày 01/7/2016 (ngày Luật Tố tụng Hành chính năm 2015 có hiệu lực thi hành) nhưng không thực hiện đúng thủ tục thu thập tài liệu, chứng cứ, không công bố, công khai tài liệu, chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án là đã xâm phạm đến quyền lợi hợp pháp của đương sự, vi phạm Điều 83, Điều 96, Điều 138 và Điều 139 Luật Tố tụng Hành chính.

(ii) Việc phát hành Bản án sơ thẩm và ban hành Quyết định sửa chữa, bổ sung bản án không đúng pháp luật. Hồ sơ vụ án có lưu 02 bản chính Bản án hành chính sơ thẩm số 04/2018/HC-ST ngày 30/3/2018, gồm: Bản án có bút lục 188-192 và Bản án không được đánh dấu bút lục của Tòa án. Cụ thể: +Bản án hành chính sơ thẩm số 04/2018/HC-ST ngày 30/3/2018 (Bút lục 188-192), được sửa đổi, bổ sung theo Quyết định sửa chữa, bổ sung bản án sơ thẩm số 04/2018/QĐ-SCBSBA ngày 10/5/2018. +Bản án hành chính sơ thẩm số 04/2018/HC-ST ngày 30/3/2018 (không đánh số bút lục) có tổng hợp một phần nội dung của Quyết định sửa chữa, bổ sung bản án sơ thẩm số 04/2018/QĐ-SCBSBA ngày 10/5/2018. Bản án này cùng nội dung với bản gốc Bản án hành chính sơ thẩm số 04/2018/HC-ST ngày 30/3/2018 (Bút lục 183-187) lưu tại hồ sơ vụ án.

Bên cạnh đó, Quyết định sửa chữa, bổ sung bản án sơ thẩm số 04/2018/QĐ-SCBSBA ngày 10/5/2018 cũng xác định không chính xác vị trí cần được bổ sung, đồng thời nội dung sửa chữa, bổ sung cũng vi phạm khoản 1 Điều 197 Luật Tố tụng Hành chính.

5. Bản án hành chính phúc thẩm số 01/2023/HC-PT ngày 04/01/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang về việc khiếu kiện hành vi hành chính

Nội dung hủy án 

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm đã thụ lý cả hai yêu cầu này để xem xét giải quyết theo quy định của Luật tố tụng hành chính là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Bởi lẽ:

(i) Xét bà Kim yêu cầu ông Vũ Văn Phong (nguyên Chủ tịch UBND xã Bố Hạ) phải trả lại diện tích 670m2 đất đã bị thu hồi không đúng pháp luật của bà Kim không thuộc đối tượng khởi kiện của vụ án hành chính theo quy định tại Điều 30 Luật tố tụng hành chính nên không thể thụ lý để xem xét, giải quyết trong vụ án hành chính này. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm cần giải thích cho đương sự để họ xác định lại yêu cầu khởi kiện, nếu bà Kim vẫn giữ nguyên yêu cầu thì cần đình chỉ yêu cầu này vì không thuộc đối tượng khởi kiện vụ án hành chính (nếu đã thụ lý) hoặc trả lại đơn khởi kiện cùng tài liệu, chứng cứ kèm theo nếu bà Kim không sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện (nếu đã ban hành Thông báo sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện).

(ii) Xét các Quyết định hành chính có liên quan đến hành vi hành chính bị kiện làm căn cứ để Tòa án cấp sơ thẩm xác định thời hiệu khởi kiện gồm: Quyết định thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất số 1742/QĐ-UBND ngày 19/12/2012 của UBND huyện Yên Thế, Quyết định phê duyệt phương án bồi thường, đền bù, giải phóng mặt bằng số 4293/QĐ-UBND ngày 25/12/2012; Quyết định giải quyết khiêu nại lần đầu số 2908/QĐ-UBND ngày 16/7/2020 của Chủ tịch UBND huyện Yên Thế và Quyết định giải quyết khiếu nại lần 2 số 253/QĐ-UBND ngày 03/02/2021 của Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Giang là các quyết định có liên quan trực tiếp đến diện tích 519m2 đất của bà Kim bị thu hồi và Chủ tịch UBND xã Bố Hạ (nay là thị trấn Bố Hạ) thực hiện hành vi hành chính để thực hiện Quyết định thu hồi đất số 1742 nêu trên nên cần phải được xem xét tính hợp pháp của các Quyết định này. Vì vậy cần phải đưa Chủ tịch UBND và UBND huyện Yên Thế, Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Giang vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhằm đảm bảo quyền lợi của các đương sự và để giải quyết vụ án được khách quan, toàn diện và triệt để.

Tòa án cấp sơ thẩm chưa đưa những người này vào tham gia tố tụng trong vụ án để xem xét các Quyết định hành chính có liên quan theo quy định tại Điều 6 và điểm đ khoản 3 Điều 191 Luật tố tụng hành chính là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hành chính, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của những người này. Ngoài ra Tòa án cấp sơ thẩm cũng chưa xem xét đến quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên trong hộ gia đình bà Kim trong vụ án là chưa đảm bảo. Những vi phạm này cấp phúc thẩm không thể khắc phục được nên cần phải hủy Bản án sơ thẩm và giao vụ án cho Tòa án có thẩm quyền giải quyết lại vụ án theo quy định của pháp luật.

Như vậy kháng cáo của bà Kim và đề nghị của đại diện VKSND tỉnh Bắc Giang không có căn cứ chấp nhận.

6. Bản án hành chính phúc thẩm số 226/2019/HC-PT ngày 17/5/2019 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh về việc khiếu kiện quyết định hành chính trong quản lý nhà nước về đất đai

Nội dung sửa án:

Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm chấp đơn khởi kiện của ông T, hủy Quyết định 4541/QĐ-UBND là có căn cứ. Tại phiên tòa, người kháng cáo không cung cấp được chứng cứ chứng minh cho yêu cầu kháng cáo là có căn cứ và hợp pháp. Vì vậy, Hội đồng xét xử thống nhất đề nghị của Viện kiểm sát, không chấp nhận kháng cáo của UBND thành phố TA và Công ty Hóa chất N. Tuy nhiên, do Quyết định 4541/QĐ-UBND trái pháp luật nên đã bị hủy nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không buộc UBND thành phố TA phải thực hiện nhiệm vụ công vụ trong việc ban hành quyết định về việc phê duyệt tiền bồi thường, hỗ trợ cho ông T đối với diện tích đất đã bị thu hồi theo quy định của pháp luật về đất đai là không đúng quy định tại Điều 193 Luật tố tụng Hành chính. Vì vậy, cần sửa một phần bản án sơ thẩm. Do kháng cáo không được chấp nhận nên UBND thành phố TA và Công ty Hóa chất N phải chịu án phí hành chính phúc thẩm.

7. Bản án hành chính phúc thẩm số /2023/HC-PT ngày 27/02/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang về việc khiếu kiện hành vi hành chính

Nội dung sửa án 

(i) Về nội dung kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang cho rằng Tòa án sơ thẩm đã vi phạm trong việc tuyên án không rõ ràng, không đúng yêu cầu khởi kiện của đương sự, Hội đồng xét xử xét thấy:

Theo đơn khởi kiện, bà Đoàn Thị K, yêu cầu đối với hành vi của Chủ tịch UBND thị trấn Bố H đã thu hồi diện tích 670m2 đất lâm nghiệp tại thửa đất số 329, tờ bản đồ số 12 có địa chỉ tại: Tổ dân phố Tân X, thị trấn Bố H, huyện Y là trái pháp luật. Nhưng phần Quyết định của án sơ thẩm lại ghi: “Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Đoàn Thị K về việc khiếu kiện hành vi hành chính của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị trấn Bố H (trước đây là xã Bố H), huyện Y đối với thu hồi diện tích 519m2 đất lâm nghiệp, tại thửa đất số 329, tờ bản đồ số 12; ở tổ dân phố Tân X, thị trấn Bố H, huyện Y, tỉnh Bắc Giang”. Việc tuyên án của Tòa cấp sơ thẩm như trên là không đúng với yêu cầu khởi kiện của bà K, vi phạm Điều 8 của Luật tố tụng hành chính năm 2015.

(ii) Về việc kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang cho rằng Tòa án sơ thẩm đã vi phạm trong việc áp dụng thiếu căn cứ pháp luật, thì thấy:

Tại Quyết định của bản án sơ thẩm đã “Đình chỉ đối với yêu cầu khởi kiện của bà Đoàn Thị K về việc buộc ông Vũ Văn Ph, (nguyên Chủ tịch UBND xã Bố H) phải trả lại diện tích 670m2 đất lâm nghiệp tại thửa đất số 329, tờ bản đồ số 12, địa chỉ: Tổ dân phố Tân X, thị trấn Bố H, huyện Y, tỉnh Bắc Giang”. Nhưng bản án lại không áp dụng Điều 211, Điều 213, Điều 348, Điều 143, Điều 144, khoản 2, Điều 165 Luật tố tụng hành chính là thiếu sót.

(iii) Về việc kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang cho rằng Tòa án sơ thẩm đã thiếu sót khi nhận định, đánh giá chứng cứ:

Tại Phần nhận định của bản án sơ thẩm đã thể hiện các nội dung: “Chủ tịch UBND thị trấn Bố H thu hồi đất của gia đình bà K từ năm 2012, 2017” …“Chủ tịch UBND xã Bố H thực hiện việc thu hồi đất của gia đình bà K là thực hiện theo quyết định số….”, “ Chủ tịch UBND thị trấn Bố H thực hiện việc thu hồi đất của gia đình bà K là đúng quy định của pháp luật”.

Việc nhận định của bản án sơ thẩm như trên là không đúng quy định về thẩm quyền ban hành các Quyết định hành chính: Theo quy định của tại Điều 44 Luật đất đai năm 2003 và khoản 2, Điều 66 Luật đất đai năm 2013 thì thẩm quyền thu hồi đất thì thuộc thẩm quyền của UBND cấp huyện. Chủ tịch UBND xã Bố H (thị trấn Bố H) không có thẩm quyền thu hồi đất; Chủ tịch UBND xã Bố H chỉ thực hiện trình tự, thủ tục về thu hồi đất theo quy định của pháp luật.

Theo quy định tại Điều 18 và Điều 21 Luật khiếu nại năm 2011 thì Chủ tịch UBND huyện có thẩm quyền giải quyết khiếu nại (lần 1) và Chủ tịch UBND tỉnh có thẩm quyền giải quyết khiếu nại (lần 2 đối với quyết định giải quyết khiếu nại lần 1). Tuy nhiên, tại phần nhận định của án sơ thẩm đã nêu: “Ngày 16/7/2020 Ủy ban nhân dân huyện Y ban hành Quyết định số 2908/QĐ-UBND về việc giải quyết khiếu nại của bà K” (trang 9); “Ngày 03/02/2021 Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Giang ban hành Quyết định số 253/QĐ-UBND về việc giải quyết khiếu nại của bà K thống nhất với Quyết định số 2908/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân huyện Y về việc giải quyết khiếu nại của bà Đoàn Thị K”.

Việc nhận định nêu trên của bản án sơ thẩm là không đúng theo Điều 18 và Điều 21 Luật khiếu nại năm 2011. UBND huyện Y và UBND tỉnh Bắc Giang không có thẩm quyền giải quyết khiếu nại mà Chủ tịch UBND huyện Y (giải quyết khiếu nại lần 1) và Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Giang mới có thẩm quyền giải quyết khiếu nại (lần 2, đối với quyết định giải quyết khiếu nại lần 1 của Chủ tịch UBND huyện Y).

(iv) Về việc kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang cho rằng Tòa án sơ thẩm đã có một số thiếu sót cụ thể là:

Bản án đã không nêu họ và tên người đại diện theo pháp luật, (hoặc người đại diện theo ủy quyền, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng này là thiếu sót.

Tại phần trích yếu của bản án nêu ý kiến của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đã nêu: “Huyện Y trình bầy” là không chính xác mà phải ghi là: UBND huyện Y hoặc Chủ tịch UBND huyện Y do người đại diện theo pháp luật (hoặc do người đại diện theo ủy quyền) đã trình bầy.

Những sai sót nêu trên của Tòa án cấp sơ thẩm mà kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang đã nêu là có căn cứ, cần chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang sửa một phần bản án sơ thẩm đã xử.

(v) Tuy nhiên đối với nội dung kháng nghị đã nêu: “Bản án không trích nêu ý kiến của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là chị Trần Thị V, sinh năm 1972; anh Trần Thanh H1, sinh năm 1973; anh Trần Duy H2, sinh năm 1984; chị Trần Thị H3, sinh năm 1975; chị Trần Thị H4, sinh năm 1977 là thiếu sót” thì thấy:

Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nêu trên đều là con của bà K đều đã được Tòa án giao văn bản tố tụng, nhưng những người này không đến Tòa án làm việc và không có lời khai. Do vậy bản án sơ thẩm không nêu lời khai của những người trên. Tuy nhiên Tòa án cấp sơ thẩm cũng phải rút kinh nghiệm về việc không nêu lý do trong bản án về việc những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có lời khai.

8. Bản án hành chính phúc thẩm số 11/2024/HC-PT ngày 05/4/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về việc khiếu kiện quyết định Hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai

Nội dung sửa án 

(i) Căn cứ quy định trên, thì UBND xã (phường) có thẩm quyền xác nhận nguồn gốc pháp lý sử dụng đất và tài sản trên đất, làm cơ sở để UBND cấp Quận, huyện, Thành phố thuộc tỉnh, ban hành Quyết định thu hồi đất, Quyết định phê duyệt phương án bồi thường, Quyết định bồi thường, hỗ trợ, tái định cư;

Đối với Thông báo Thu hồi đất số 1577/TB-UBND-TNMT ngày 29/8/2019 của UBND Quận H chỉ mang tính chất “dự kiến thu hồi đất ”.

Do đó Hành vi của UBND phường T ban hành Giấy xác nhận tình trạng pháp lý nhà đất nêu trên, là hành vi hành chính có ảnh hưởng đến nội dung: Tổ chức, Cá nhân hoặc hộ gia đình bị thu hồi đất, diện tích đất, tài sản bị thu hồi và chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư được hưởng;

Hành vi hành chính thuộc đối tượng khởi kiện vụ án hành chính, theo Điều 3 Luật TTHC. Chấp nhận ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

(ii) Người khởi kiện có tranh chấp về hành vi xác nhận của UBND phường T: ai là người được hưởng chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư của phần nhà đất số 176 Đường T, phường T, bị thu hồi? cần làm rõ.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị chấp nhận một phần kháng nghị của Viện kiển kiểm sát nhân dân Thành phố Đ, theo hướng: huỷ bỏ cho cá nhân ông Nguyễn Hoàng L; và công nhận các thừa kế của ông Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị V được hưởng chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư của phần nhà đất số 176 Đường T, phường T, bị thu hồi.

(iii) Do đó, phần nhà đất bị thu hồi theo dự án mở rộng đường Đường T trên địa bàn phường T, diện tích đất 63,64m2, diện tích xây dựng 63,64m2, chưa được giải quyết bởi Bản án của Toà án.

Xét UBND phường T xác nhận tình trạng pháp lý nhà đất (nêu trên) cho cá nhân ông Nguyễn Hoàng L, là không đúng thực tế và không đúng nguồn gốc xác nhận pháp lý của Văn phòng ĐKĐĐ. Đúng phải thuộc về các thừa kế theo pháp luật của ông Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị V (các đương sự đều thừa nhận Ông H, bà V chết không để lại di chúc - Điều 651 Bộ luật dân sự năm 2015). Các thừa kế theo pháp luật của Ông H, bà V được hưởng chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư từ phần nhà đất 176 Đường T, phường T bị thu hồi theo dự án (Điều 74, 75, 101 Luật đất đai năm 2013)

(iv) Xét Hợp đồng chuyển nhượng nhà đất giữa ông L với ông Trần Văn Đ, bà Nguyễn Thị Cát Linh:

Nội dung của hợp đồng này là phần diện tích nhà đất được công nhận sở hữu, sử dụng cho ông L theo GCN vào sổ số 754/2002 ngày 23/8/2002, cập nhật biến động sở hữu cho ông L ngày 03/12/2014. Không bao gồm phần nhà đất bị thu hồi theo dự án mở rộng đường Đường T.

Xét vị trí phần nhà đất đã chuyển nhượng từ ông L S ông Đạt bà Linh C, theo GCN, với phần nhà đất chưa được cấp GCN nay bị thu hồi, đều tiếp giáp với hai mặt tiền đường Đường T và đường số 22 (theo Công văn số 1904/CNTPTĐ ngày 21/12/2021 của Văn phòng ĐKĐĐ và thừa nhận của người bảo vệ quyền lợi UBND phường tại Toà).

Suy diễn của UBND phường T về phần nhà đất bị thu hồi, thuộc về ông L (đã bán cho ông Đạt, bà Linh C), nhằm đảm bảo có lối đi ra đường, là không có căn cứ.

(v) Ngoài ra Giấy xác nhận tình trạng pháp lý nhà đất số 05/UBND-XNNDT ngày 18/01/2022 có nội dung thay thế Giấy xác nhận tình trạng pháp lý nhà đất số 643/UBND-XN-NDT ngày 14/01/2022. Do đó đường lối giải quyết của Toà sơ thẩm chỉ tuyên huỷ bỏ Giấy số 05/UBND-XN-DNT, là chưa triệt để.

Từ những phân tích trên, chấp nhận một phần kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đ. Chấp nhận ý kiến của Luật sư bảo vệ quyền lợi cho bà M; sửa một phần án sơ thẩm.

9. Bản án hành chính phúc thẩm số 02/2023/HC-PT ngày 07/02/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu về việc khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai

Nội dung sửa án 

(i) Ông D tranh chấp 2.000m2 đất với UBND xã Hòa Bình, ông D cho rằng Diện tích đất này do ông D nhận chuyển nhượng của ông Hà (cha ông D mua). Năm 2008, UBND xã thu hồi giao cho Hội người cao tuổi sử dụng không có quyết định và ông D không đồng ý. Sau đó, ông D khiếu nại yêu cầu UBND xã trả lại đất và đến bù cây trên đất cho ông D. Năm 2020, ông D mất, ông D và bà L tiếp tục khiếu nại. Chủ tịch UBND xã cho rằng Diện tích 2.000m2 đất ông D khiếu nại là do ông D chiếm dụng đất công nên UBND xã vận động ông D trả lại làm sân bóng, hiện nay UBND xã cho một số hộ dân sử dụng trồng rau, UBND xã không thu hồi đất của ông D.

Thực chất đây là tranh chấp đất đai giữa cá nhân với tổ chức, thuộc trường hợp đất không có Giấy chứng nhận hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 luật đất đai. Trường hợp này, căn cứ điểm b khoản 3 Điều 203 Luật đất đai 2013, thẩm quyền giải quyết tranh chấp thuộc Chủ tịch UBND cấp tỉnh. Chủ tịch UBND xã Hòa Bình giải quyết là không đúng thẩm quyền. Bản án sơ thẩm căn cứ vào Luật khiếu nại để cho rằng Chủ tịch UBND xã Hòa Bình giải quyết là đúng thẩm và bác yêu cầu của ông D là không đúng quy định của pháp luật. Cấp phúc thẩm cần phải sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông D, hủy quyết định giải quyết khiếu nại của Chủ tịch UBND xã Hòa Bình.

(ii) Quyết định giải quyết khiếu nại số 262/QĐ – UBND ngày 21/9/2020 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Hòa Bình phải bị hủy do vi phạm về thẩm quyền giải quyết, nên Tòa án không xem xét về nội dung. Trường hợp vẫn còn tranh chấp, các bên có quyền khiếu nại lên Chủ tịch UBND tỉnh hoặc khởi kiện ra Tòa án theo quy định của pháp luật.

10. Bản án hành chính phúc thẩm số 88/2022/HC-PT ngày 24/02/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về việc khiếu kiện quyết định hành chính

Nội dung sửa án 

(i) Xét thấy, diện tích đất ông Phạm Quang L đang sử dụng, nguyên trước đây của ông Phạm Văn T là cha chuyển nhượng cho con. Ngày 20/6/2005 ông Phạm Văn T có đơn xin xác nhận nguồn gốc đất, đã ghi: Vào ngày 12/12/1991 Tôi có chuyển nhượng cho ông Phạm Quang L sinh năm 1967 trú ở: 48 ấp P, xã K một thửa đất có diện tích 669,6m2 loại đất Gò thổ. Đến Ngày 28/4/2006 Chủ tịch UBND xã K đã xác nhận số 203/HC” ông Phạm Văn T thường trú xã K, huyện G có đến UBND xã ký tên vào giấy xác nhận nguồn gốc đất cho ông Phạm Quang L là sự thật” (bút lục 08) và ông L đã xây dựng một số công trình trên phần đất này, nên căn cứ điểm b.3 Điều 2.2 mục III Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và tại phiên tòa xét xử người bảo vệ quyền lợi của UBND huyện G xác nhận là đúng và đang sử dụng hợp pháp. Ngoài ra vấn đề này còn được chứng minh bởi tại bản tự khai nguồn gốc quyền sử dụng đất và sỡ hữu nhà của ông Phạm Quang L có xác nhận của UBND xã K ngày 08/11/2005 và cũng tại chính quyết định 1093 cũng khẳng định “diện tích 669,6m2 đất thuộc một phần thửa 1-367 của ông L. Do đó, ông L là người có quyền sử dụng đất với diện tích 669,6m2, tức ông là chủ thể độc lập có đất bị thu hồi phát sinh bởi quyết định 2808, quyết định 5702 và quyết định 2557 mới đúng quy định pháp luật

(ii) Ngày 13/6/2008. UBND huyện G đã ban hành Quyết định số 349/QĐ- UBND về việc phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ thiệt hại diện tích 669,6m2 cho ông L với số tiền 437.654.000 đồng và ngày 16/8/2008 ban hành quyết định số 384/QĐ- UBND thu hồi 800m2 đất của hộ ông T. Sau đó, phát hiện ông T chết (ông T chết vào ngày 23/12/2007, chết trước ngày ban hành quyết đinh thu hồi đất 384), nên UBND huyện G lại ban hành quyết định số 126/QĐ-UBND ngày 14/5/2010 thu hồi hủy bỏ quyết định thu hồi số 384. Như vậy, quyết định 349 cũng không còn giá trị vì: Quyết định bồi thường ban hành trước quyết định thu hồi và không căn cứ vào quyết định thu hồi là trái với quy định. Mặt khác, việc ban hành hai quyết định 349 và 384 cũng không đúng pháp luật vì thu hồi đất của ông T mà lại duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ cho ông L. Như phân tích ở trên và ý kiên của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện thì ông L là chủ thể độc lập có đất bị thu hồi thì phải có một quyết định thu hồi đất độc lập đối với ông và mới có quyết định bồi thường hỗ trợ khi có đất bị thu hồi.

(iii) Ngày 10/10/2013 Ủy ban nhân dân huyện G ban hành quyết định số 1093/QĐ-UBND để thu hồi bổ sung 800m2, nhưng tính đến trước ngày 10/10/2013, UBND huyện G chưa thực hiện trình tự thủ tục thu hồi đất và ra quyết định thu hồi đất với ông L, nên không thể ra quyết định bổ sung thu hồi đất bổ sung đối với thửa đất của ông L. Sau khi thu hồi bổ sung 800m2 phía Ủy ban nhân huyện G chưa lập phương án bồi thường là không đúng vơi trình tự thu hồi đất.

Mặc dù ông L không kháng cáo cũng như không có yêu cầu khởi kiện về bồi thường đất do việc thu hồi đất nhưng xét tổng thể và căn cứ Điều 39 Luật đất đai năm 2003: “Trước khi thu hồi đất, chậm nhất là chín mươi ngày đối với đất nông nghiệp và một trăm tám mươi ngày đối với đất phi nông nghiệp, cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải thông báo cho người bị thu hồi đất biết lý do thu hồi, thời gian và kế hoạch di chuyển, phương án tổng thể về bồi thường, giải phóng mặt bằng, tái định cư.” Và căn cứ Điều 30,31 Nghị định 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 về việc quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, thì việc bồi thường là một trình tự thủ tục không thể thiếu khi ban hành quyết định thu hồi đất. Do đó Hội đồng xét xử phải xem xét luôn trình tự và giải quyết bồi thường cho gia đình ông L sau khi ban hành quyết định số 1093/QĐ-UBND ngày 10/10/2013.

Việc UBND huyện thu hồi đất của ông Phạm Quang L theo Quyết định số 1093/QĐ-UBND nhưng không có bất cứ văn bản nào về việc phê quyệt, giải quyết bồi thường đối với việc thu hồi bổ sung khu đất 800m2 (trong đó có việc bồi thường 669,6m2 đất của Phạm Quang L) là không đúng theo quy định của Luật đất đai 2003 và Điều 14 nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009

(iv) Ông Phạm Quang L cho rằng không được bồi thường hỗ trợ thiệt hại tương ứng với diện tích thu hồi bổ sung là không thỏa đáng.

Xét thấy, việc UBND huyện ra quyết định thu hồi đất số 1093/QĐ-UBND ngày 10/10/2013, nhưng lại áp dụng giá trị quyền sử dụng đất từ năm 2008 là trái với quy định của pháp luật. Căn cứ thông tư 116/2004/TT-BTC ngày 07/12/2004 của Bộ Tài Chính quy định tại điểm 1 phần II bồi thường, hỗ trợ về nguyên tắc bồi thường như sau: “Người bị thu hồi đất nào thì được bồi thường bằng đất mới có cùng mục đích sử dụng, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng giá trị sử dụng đất tại thời điểm có quyết định thu hồi đất.” Do đó, yêu cầu của người khởi kiện tuyên hủy Quyết định số 1093/QĐ-UBND ngày 10/10/2013 của UBND huyện G về việc thu hồi bổ sung khu đất diện tích 800m2 thuộc thửa 1-367 tờ bản đồ số 08, tọa lạc xã K, huyện G để UBND huyện G thực hiện thu hồi đất theo đúng trình tự và giải quyết bồi thường theo qui định, đảm bảo quyền lợi cho gia đình ông Phạm Quang L là có cơ sở pháp lý nên được hội đồng xét xử chấp nhận.

(v) Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy Ủy ban nhân dân huyện G đã xác định sai chủ thể có đất bị thu hồi dẫn đến việc tiến hành trình tự ban hành quyết định thu hồi đất không đúng quy định của pháp luật. Tòa án Cấp sơ thẩm cũng xác định chủ thể có đất bị thu hồi chưa đúng nên đã quyết định không đúng pháp luật như án sơ thẩm đã tuyên.

Vì Vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm cần sửa án sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện, chấp nhận yêu cầu kháng cáo của người khởi kiện. Cụ thể: Cần hủy phần thu hồi 669,66m2 của ông Phạm Quang L được ban hành trong điều 1 Quyết định số 1093/QĐ-UBND ngày 10/10/2013 của UBND huyện G. Đồng thời tiến hành thu hồi diện tích đất này bằng một quyết định thu hồi đất độc lập đối với chủ thể bị thu hồi là ông Phạm Quang L theo đúng quy đinh của pháp luật.

Góp ý