MỤC LỤC
1. Bản án hành chính phúc thẩm số 679/2022/HC-PT ngày 26/8/2022 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh về việc Khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai đối với trường hợp cưỡng chế thu hồi đất
Nội dung hủy án:
(i) Hội đồng xét xử xét thấy, phần đất bị thu hồi nói trên là của hộ bà T đã được UBND thị xã Phan Rang – Tháp Chàm (nay là thành phố Phan Rang – Tháp Chàm) cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Quyết định số 22/UB-TX ngày 14/01/1993. Trong hộ khẩu của gia đình bà T có những người gồm bà T, các con của bà T là Dương Thị Hồng T1, Dương Lâm K. Việc người bị kiện ra Quyết định thu hồi đất có liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của hộ bà T là những người có tên trong hộ khẩu, tuy nhiên, khi Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý, xét xử đã không đưa những người này vào tham gia tố tụng, lấy lời khai và ý kiến của họ mà chỉ lấy lời khai của bà T là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ.
(ii) Hội đồng xét xử xét thấy, mặc dù yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện chỉ yêu cầu hủy Quyết định số 1953/QĐ-UBND ngày 06/7/2016 của Chủ tịch UBND thành phố Phan Rang – Tháp Chàm về việc cưỡng chế thu hồi. Tuy nhiên, bản chất của yêu cầu này lại liên quan đến việc người khởi kiện không đồng ý về giá bồi thường và chính sách hỗ trợ bồi thường tái định cư có liên quan đến các Quyết định số 1914/QĐ-UBND ngày 02/8/2013 và Quyết định số 1937/QĐ-UBND ngày 02/8/2013 của UBND thành phố Phan Rang – Tháp Chàm. Như vậy, khi xem xét, giải quyết và đánh giá tính hợp pháp, có căn cứ của Quyết định số 1953/QĐ-UBND ngày 06/7/2016 thì Tòa án cấp sơ thẩm phải đánh giá những Quyết định này mới toàn diện và giải quyết đúng đắn yêu cầu của đương sự.
Tòa án cấp sơ thẩm đã không làm rõ vấn các đề này khi thu hồi đất để thực hiện dự án K1 là có thiếu sót, ảnh hưởng đến quyền lợi ích hợp pháp của người khởi kiện.
Những vi phạm nói trên của Tòa án cấp sơ thẩm là nghiêm trọng mà Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm không thể khắc phục được, vì vậy cần phải hủy toàn bộ bản án sơ thẩm để đưa những người nói trên vào tham gia tố tụng, xem xét các Quyết định có liên quan và xét xử lại theo thủ tục chung.
2. Bản án hành chính phúc thẩm số 02/2017/HC-PT ngày 05/7/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Hoà Bình về việc Khiếu kiện quyết định cưỡng chế hành chính giải phóng mặt bằng
Nội dung hủy án:
(i) Vụ án thụ lý vào ngày 01/3/2010, nhưng tới ngày 22/12/2015, Tòa án nhân dân huyện huyện L mới ra Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án là vi phạm về thời hạn chuẩn bị xét xử theo điểm a khoản 1 điều 117 Luật TTHC năm 2010.
(ii) Tuy nhiên, Nghị quyết số 15/2008/QH12 do Quốc hội ban hành ngày 29/5/2008 đã quyết nghị chuyển toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số hiện tại của xã T – huyện L về thành phố Hà Nội. Tới ngày 08/5/2009, Chính phủ ra Nghị quyết số 19/NĐ – CP, quyết nghị chuyển toàn bộ diện tích tự nhiên và nhân khẩu của xã T vào huyện K – thành phố Hà Nội quản lý. Trong quá trình Tòa án nhân dân huyện L giải quyết vụ án đã không đưa Ủy ban nhân dân huyện K tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là vi phạm khoản 5 điều 59 Luật Tố tụng Hành chính.
Hội đồng xét xử xét thấy: Nghị quyết số 19/NĐ – CP ngày 08/5/2009 của Chính phủ chuyển giao toàn bộ xã T – huyện L về huyện K – thành phố Hà Nội. Ngày 01/3/2010, Tòa án nhân dân huyện L thụ lý vụ án; ngày 06/3/2017 đưa vụ án ra xét xử. Nhưng trong quá trình giải quyết vụ án đã không đưa Ủy ban nhân dân huyện K tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của các đương sự, sai sót này không thể khắc phục ở được ở cấp phúc thẩm. Do đó, chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Đinh Quang H , hủy toàn bộ bản án sơ thẩm để xét xử lại.
3. Bản án hành chính phúc thẩm số 10/2022/HCPT ngày 28/6/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội về việc Khiếu kiện quyết định xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai
Nội dung hủy án:
(i) Ngoài việc thụ lý, giải quyết, xét xử đối với các đối tượng khởi kiện vụ án hành chính là Quyết định 6341/QĐ-UBND và Quyết định 6691/QĐ-UBND cùng ngày 05/11/2013 của Chủ tịch UBND huyện S về việc áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả và cưỡng chế thi hành quyết định áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả, yêu cầu bồi thường thiệt hại thì Thông báo thụ lý vụ án số 04/TB-TLVA ngày 12/5/2016 và Bản án sơ thẩm số 01/2018/HCST ngày 31/01/2018 của Tòa án nhân dân huyện S đã thụ lý và xét xử cả những yêu cầu không thuộc đối tượng khởi kiện vụ án hành chính, không thuộc thẩm quyền giải quyết của Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án hành chính quy định tại Điều 3, Điều 193 Luật tố tụng hành chính gồm: Yêu cầu khôi phục nguyên hiện trạng các thửa đất nông nghiệp số 1703, 1704, 1671, 1378, thửa đất ở số 186 được giao theo Quyết định số 110 và thửa đất vỡ hoang từ năm 1977 có diện tích 737,4m2 liền kề thửa 1671 và 1378 ở gò Đồng Tròn; Xác định thửa đất nông nghiệp số 1703 và 1704 thuộc xứ đồng Dộc Ống Bò và thửa đất số 186 tờ bản đồ số 6 gia đình được giao theo Quyết định số 110/QĐ-UB tại khu Cửa Rừng thôn Đ thuộc quyền sử dụng hợp pháp của gia đình.
(ii) Tòa án nhân dân huyện S đã giải quyết thiếu các yêu cầu khởi kiện sau đây thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án mà không có căn cứ về việc các yêu cầu này đã được tách vụ án: Hành vi tổ chức cưỡng chế thu hồi đất trái pháp luật, phá dỡ công trình trên đất, xây dựng và hủy hoại tài sản cây cối, hoa màu, vật nuôi của Chủ tịch UBND huyện S và Chủ tịch UBND xã H đối với thửa đất nông nghiệp số 1703, 1704, 1671, 1378, thửa đất ở số 186 được giao theo Quyết định 110.QĐ/UB ngày 25/01/1995 của UBND xã H và khu đất vỡ hoang từ năm 1977 có diện tích 737,4m2 liền kề thửa 1671 và thửa 1378 ở gò Đồng Tròn.
(iii) Tại Thông báo thụ lý vụ án số 04/TA-TLVA ngày 12/5/2016 (BL 49), ngoài việc thụ lý yêu cầu khởi kiện đối với Quyết định 6341/QĐ-UBND ngày 05/11/2013 và Quyết định 6691/QĐ-UBND ngày 25/11/2013 của Chủ tịch UBND huyện S, Tòa án nhân dân huyện S còn thụ lý vụ án về việc yêu cầu khởi kiện hành vi cưỡng chế phá dỡ công trình, hành vi cưỡng chế thu hồi đất của Chủ tịch UBND xã H nhưng phần nêu những vấn đề cụ thể người khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết không có yêu cầu khởi kiện hành vi hành chính của Chủ tịch UBND xã H và cũng không có người bị kiện là Chủ tịch UBND xã H.
(iv) Theo quy định tại Khoản 1 Điều 193 Luật tố tụng hành chính và Mục 5 Giải đáp số 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/4/2017, trong quá trình xét xử Hội đồng xét xử phải xem xét tính hợp pháp của tất cả các quyết định hành chính khác có liên quan đến quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khởi kiện, quyết định giải quyết khiếu nại và văn bản quy phạm pháp luật có liên quan mà không phụ thuộc vào việc các quyết định này còn hay hết thời hiệu khởi kiện. Tòa án cấp sơ thẩm chỉ xem xét tính hợp pháp của 02 quyết định hành chính bị khởi kiện mà không xem xét tính hợp pháp của các quyết định hành chính khác có liên quan và quyết định giải quyết khiếu nại gồm:
- Quyết định 5037/QĐ-UBND ngày 18/9/2013 của Chủ tịch UBND huyện S về việc giải quyết khiếu nại lần hai (là quyết định nêu trong căn cứ ban hành quyết định hành chính bị kiện là Quyết định 6341/QĐ-UBND ngày 05/11/2013 của Chủ tịch UBND huyện S).
- Quyết định 39/QĐ-UBND ngày 22/4/2013 của Chủ tịch UBND xã H giải quyết đơn khiếu nại (lần đầu)
- Quyết định 09/QĐ-UBND ngày 29/01/2013 của Chủ tịch UBND xã H về việc cưỡng chế phá dỡ công trình vi phạm trật tự xây dựng
- Quyết định 08/QĐ-UB ngày 25/01/2013 của Chủ tịch UBND xã H về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai.
- Quyết định 229/QĐ-UBND ngày 06/12/2012 của Chủ tịch UBND xã H về việc đình chỉ thi công xây dựng công trình vi phạm trật tự xây dựng.
- Quyết định 234/QĐ-UBND ngày 07/12/2012 của Chủ tịch UBND xã H về việc cưỡng chế phá dỡ công trình vi phạm trật tự xây dựng.
- Quyết định 100/QĐ-XPHC ngày 31/7/2012 của Chủ tịch UBND xã H ban hành xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai
- Quyết định 3571/QĐ-UBND ngày 19/12/2007 của UBND huyện S về việc thu hồi đất nông nghiệp, đất ở của các hộ gia đình cá nhân thôn Thượng, Đ, xã H để GPMB thực hiện dự án cải tạo nâng cấp tuyến đường H – Ga, đê tả trong đó hộ gia đình ông Đặng Đình H bị thu hồi 282,6m2 đất nông nghiệp tại các thửa 1703, 1704, 1378 tờ bản đồ 01 và 105,6m2 đất ở nông thôn tại các thửa 04, 186 tờ bản đồ 06 (mà Quyết định 5037/QĐ-UBND ngày 18/9/2013 của Chủ tịch UBND huyện S yêu cầu Ban quản lý dự án huyện S lập phương án điều chỉnh đối với diện tích 17,2m2 đất thuộc thửa 186 tờ bản đồ 06 của hộ gia đình ông H).
- Quyết định 110 QĐ/UB Ngày 25/01/1995 của UBND xã H về việc thanh lý đất đầu thừa đuôi thẹo (mà Quyết định 5037/QĐ-UBND ngày 18/9/2013 của Chủ tịch UBND huyện S yêu cầu UBND xã H xác định rõ diện tích đất thanh lý cho ông H).
(v) Xác định sai và đưa thiếu người tham gia tố tụng, cụ thể:
- Theo quy định tại Điểm g Khoản 2 Điều 193 Luật tố tụng hành chính và Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017, cơ quan có trách nhiệm bồi thường thiệt hại nên người bị kiện đối với yêu cầu bồi thường thiệt hại của ông H và bà Quyền là UBND huyện S và UBND xã H. Tòa án cấp sơ thẩm xác định UBND huyện S và UBND xã H là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là không đúng, cần phải xác định là Người bị kiện.
- Đưa thiếu người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố tụng là: Chủ tịch UBND xã H, Ban quản lý dự án huyện S (tổ chức được Quyết định 5037/QĐ-UBND ngày 18/9/2013 giao nhiệm vụ lập phương án điều chỉnh đối với diện tích 17,2m2 đất đã bị thu hồi), Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện S (cơ quan được Quyết định 5037/QĐ-UBND ngày 18/9/2013 giao tiến hành điều tra, làm rõ hành vi sửa chữa nội dung Quyết định 110/1995), thành viên khác trong hộ gia đình ông H được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, bị thu hồi đất, bị cưỡng chế áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả.
(vi) Trang 7 của Bản án nhận định về thời hiệu khởi kiện theo Đơn khởi kiện nộp ngày 10/12/2013 nhưng trong hồ sơ vụ án không có tài liệu này. Mặt khác, theo Thông báo trả lại đơn kiện số 01 ngày 31/3/2014 (BL 31) thì đơn khởi kiện này đã được trả lại cho người khởi kiện do không sửa đổi, bổ sung theo yêu cầu của Tòa án. Như vậy, Bản án nhận định về thời hiệu khởi kiện theo đơn khởi kiện đã bị trả lại là không đúng.
(vii) Tại biên bản phiên tòa sơ thẩm thể hiện, người khởi kiện vẫn yêu cầu buộc khôi phục nguyên trạng các thửa đất nông nghiệp 1671, 1378 và thửa đất vỡ hoang từ năm 1977 có vị trí liền kề cùng với thửa 1671, 1378 ở gò Đồng Trong; không có yêu cầu rút nhưng tại trang 4 bản án sơ thẩm có ghi Đối với yêu cầukhôi phục nguyên hiện trạng đối với thửa đất số 1671, 1378 và thửa đất vỡ hoang từ năm 1977 có vị trí ở khu gò Đồng Tròn thôn Đ ông H, bà Q xin rút yêu cầu vì đã làm đơn khởi kiện nội dung này trong vụ án khác là không đúng diễn biến tại phiên tòa.
(viii) Thiếu nhận định đối với yêu cầu khởi kiện buộc các đối tượng có hành vi vi phạm phải chịu trách nhiệm trước pháp luật không thuộc đối tượng khởi kiện vụ án hành chính nên Tòa án không thụ lý, giải quyết yêu cầu này.
(ix) Phần quyết định của bản án ghi thiếu thửa 1671, 1378; thửa đất vỡ hoang từ năm 1977 có diện tích 737,4m2 liền kề thửa 1671 và 1378 ở gò đồng Tròn và thửa số 186 được giao theo Quyết định số 110 trong yêu cầu đòi khôi phục nguyên trạng các thửa đất nông nghiệp; thiếu đối với thửa đất nông nghiệp số 1703 và 1704 thuộc xứ đồng Dộc Ống Bò trong yêu cầu đòi công nhận các thửa đất thuộc quyền sử dụng hợp pháp của ông H, bà Q.
(x) Trong vụ án có 02 người kháng cáo là ông Đặng Đình H, bà Nguyễn Thị Q nhưng Tòa án cấp sơ thẩm thông báo cho 02 người kháng cáo nộp chung 300.000đ tạm ứng án phí phúc thẩm là không đúng quy định tại Điều 209, Điều 347 Luật tố tụng hành chính.
(xi) Khoản 2 Điều 35 Luật tố tụng hành chính quy định: Tòa án tách một vụ án có các yêu cầu khác nhau thành hai hoặc nhiều vụ án hành chính khác nhau để giải quyết trong trường hợp quyết định hành chính bị khởi kiện liên quan đến nhiều người khởi kiện và quyền lợi, nghĩa vụ của những người khởi kiện đó không liên quan với nhau. Trong vụ án, người khởi kiện là vợ chồng ông H bà Q khởi kiện nhiều quyết định hành chính, hành vi hành chính của UBND xã H, UBND huyện S và người có thẩm quyền trong 2 cơ quan này mà các quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khởi kiện và quyền lợi, nghĩa vụ của ông H, bà Q lại có liên quan đến nhau nên việc Tòa án nhân dân huyện S tách yêu cầu khởi kiện đối với Chủ tịch và UBND huyện S, Chủ tịch và UBND xã H thành 02 vụ án riêng biệt là không đúng quy định của pháp luật về tách vụ án.
Mặt khác, việc tách vụ án chỉ được thực hiện sau khi vụ án đã được thụ lý, chứ không phải tách từ khi xử lý đơn khởi kiện.
(xii) Tòa án cấp sơ thẩm chưa thu thập đầy đủ chứng cứ đã quyết định bác yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện là chưa đủ căn cứ; cần phải thu thập chứng cứ mới quan trọng mà Tòa án cấp phúc thẩm không thể bổ sung ngay được tại phiên tòa, cụ thể:
- Chưa tiến hành giám định bản chính Quyết định 110.QĐ/UB ngày 25/01/1995 của UBND xã H mà ông H đang lưu giữ có bị sửa chữa, thêm bớt chữ, số và ký tự hay không? Nếu có thì diện tích ban đầu trước khi có sự sửa chữa là bao nhiêu?
- Chưa có kết quả xử lý của Công an huyện S đối với Văn bản số 1424/UBND-TTr ngày 18/9/2013 của UBND huyện S về việc chuyển vụ việc vi phạm pháp luật sang cơ quan điều tra (các BL 169, 258, 274).
- Chưa làm rõ diện tích 17,2m2 đất ở ông H bị thu hồi tại Quyết định 3571/2007 đã được xác định lại loại đất theo Quyết định 5037/QĐ-UBND ngày 18/9/2013 của Chủ tịch UBND huyện S chưa.
- Chưa làm rõ sự quản lý của UBND xã H đối với 1.257,36m2 đất công trên hồ sơ địa chính và thực tế (thể hiện tại Quyết định số 5037/QĐ-UBND ngày 18/9/2013 của UBND huyện S).
- Chưa làm rõ thửa đất mà ông H được thanh lý theo Quyết định 110.QĐ/UB ngày 25/01/1995 của UBND xã H thuộc thửa đất và tờ bản đồ nào trong hồ sơ địa chính của UBND xã H khi mà có nhiều tài liệu có thông tin khác nhau như:
+ Tại Văn bản 2047/UBND ngày 19/12/2016 của UBND huyện S (BL 321) là thửa số 1701 (không rõ số tờ bản đồ năm nào) có diện tích 400m2 nhưng bị thu hồi 17,2m2 để làm đường còn lại 382,8m2;
+ Kết luận số 216/KL-TTr ngày 29/8/2013 của Thanh tra huyện S (BL 178, 253) cũng là thửa 1701 nhưng diện tích là 542m2, bán thanh lý cho ông H 400m2, còn lại 142m2 là đất công.
+ Theo Quyết định 3571/QĐ-UBND ngày 19/12/2007 của UBND huyện S thì diện tích 17,2m2 bị thu hồi thuộc thửa đất ở số 186 tờ bản đồ 06 (không phải là thửa 1701 như các văn bản trên).
+ Văn bản 303/CV-UBND ngày 11/10/2017 của UBND xã H (BL 374) lại xác định chủ sử dụng thửa đất ở số 186 tờ bản đồ 06 diện tích 314m2 đo đạc năm 1996 là ông Đặng Đức T (không phải là ông Đặng Đình H như Quyết định 3571/QĐ-UBND ngày 19/12/2007 và diện tích cũng không phải như các văn bản trên).
- Chưa thu thập Quyết định 39/QĐ-UBND ngày 22/4/2013 của Chủ tịch UBND xã H giải quyết đơn khiếu nại (lần đầu)
- Bút lục 220 và 221 thiếu trang đầu tiên nên không biết là tài liệu gì. Bút lục 222 là giấy trắng.
4. Bản án hành chính phúc thẩm số 360/2023/HC-PT ngày 26/5/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội về việc Khiếu kiện quyết định hành chính trong quản lý đất đai
Nội dung hủy án:
(i) Ông T, bà L khởi kiện Quyết định 8515 và Quyết định số 3678/QĐ-UBND ngày 17/6/2019 của Chủ tịch UBND huyện C về việc giải quyết khiếu nại. Nhưng Bản án sơ thẩm giải quyết đối với Quyết định 3680/QĐ-UBND ngày 17/6/2019 của Chủ tịch UBND huyện C về giải quyết khiếu nại lần đầu là chưa làm rõ đối tượng khởi kiện của vụ án.
(ii) Quyết định liên quan cần xem xét khi giải quyết vụ án là Quyết định số 4985/QĐ-UBND ngày 20/9/2018 của UBND thành phố H về việc thu hồi 9.929,9m2 đất nông nghiệp công ích do UBND thị trấn X quản lý để GPMB thực hiện dự án đầu tư xây dựng Trường tiểu học X. Nhưng, Tòa án cấp sơ thẩm không đưa UBND thành phố H vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là thiếu sót theo quy định tại Điều 6 Luật Tố tụng hành chính.
(iii) Xét tính hợp pháp của Quyết định số 8515/QĐ-UBND ngày 27/12/2018 về thẩm quyền, trình tự thủ tục ban hành Quyết định số 8515: Hình thức của Quyết định 8515 được ban hành đúng theo mẫu số 11. Quyết định cưỡng chế thu hồi đất (Ban hành kèm theo Thông tư số 30/2014/TT-BTNMT ngày 02-6-2014 của Bộ trưởng Bộ T5). Sau khi ban hành quyết định thu hồi đất, Ủy ban nhân dân huyện C ban hành Quyết định số 8208/QĐ-UBND ngày 24/9/2018 về việc phê duyệt phương án bồi thường, hồ trợ và tái định cư đối với hộ ông Trần Đức T. UBND thị trấn X phối hợp với Trung tâm phát triển quỹ đất huyện C tiến hành thực hiện công tác bồi thường, đã tiến hành thông báo nhiều lần (Lần 1, Thông báo số 589, ngày 28/9/2018; Lần 2, Thông báo số 651 ngày 15/10/2018), phối hợp với các tổ chức đoàn thể tổ chức vận động, tuyên truyền các hộ nhận tiền ngày 04/11/2018. Nhưng có 04 hộ, trong đó có hộ ông Trần Đức T không nhất trí nhận tiền và không bàn giao mặt bằng, nên UBND huyên Chương Mỹ ban hành quyết định cưỡng chế là có căn cứ. Tuy nhiên, hồ sơ chưa có tài liệu về trình tự, thủ tục, điều kiện cưỡng chế thu hồi đất nên Tòa án cấp phúc thẩm không có cơ sở đánh giá về tính hợp pháp của quyết định theo quy định tại Điều 71 Luật Đất đai 2013.
(iv) Tuy nhiên, xét Hợp đồng số 68/HĐ-UBND thấy không xác định rõ diện tích 134m2 thuộc thửa đất số mấy, tờ bản đồ nào.
(v) Đối với yêu cầu khởi kiện của ông T bà L, có lúc yêu cầu giải quyết đối với thửa đất số 93, có lúc lại yêu cầu giải quyết đối với thửa đất số 90, tại bản án sơ thẩm cũng không thống nhất nội dung giải quyết thửa đất số 90 hay 93. Tại phiên tòa phúc thẩm ông T, bà L cho rằng thửa đất số 90 và 93 là một.
Tuy nhiên, theo Bản đồ địa chính đo đạc năm 2005, tỷ lệ 1/500, được ký duyệt năm 2008, tờ bản dồ số 68; Sổ mục kê năm 2005 thể hiện: thửa đất số 90 và thửa đất số 93 là khác nhau, có vị trí, diện tích và người sử dụng trước khi bị thu hồi là khác nhau (thửa đất số 90, tờ bản đồ số 68 có diện tích 122,7m2, loại đất BCS, chủ sử dụng UBND thị trấn, phần ghi chú Nguyễn Thị D3”; Thửa đất số 93 có diện tích 156,5m2, loại đất BCS, chủ sử dụng: UBND thị trấn, ghi chú Trần Đức T”) và chưa được làm rõ thực tế ông T bà L quản lý, sử dụng thửa đất nào và 134m2 bị cưỡng chế thu hồi nằm ở thửa đất nào ông T bà L đang quản lý, sử dụng khi thu hồi. Nội dung này tại phiên tòa phúc thẩm không làm rõ được.
(vi) Đối với thửa đất số 70, diện tích 156,7m2, chủ sử dụng: UBND thị trấn, Ghi chú Trần Đăng D1”. Tại báo cáo số 259 ngày 05/12/2018 của UBND thị trấn X có nội dung tại Quyết định số 6206/QĐ-UBND ngày 24/9/2018 của UBND huyện C về việc phê duyệt chi tiết phương án bồi thường ..đối với hộ ông Trần Đăng D1 .... Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết đối với thừa đất số 70 theo yêu cầu khởi kiện của ông T bà L nhưng không đưa ông D1 vào tham gia tố tụng để làm rõ quyền khởi kiện của ông T bà L đối với thửa đất số 70, ông T bà L không được ông D1 ủy quyền khởi kiện là chưa đảm bảo quy định.
(vii) Đối với Quyết định giải quyết khiếu nại số 3690 ngày 17/6/2019 về việc giải quyết khiếu nại của ông T về việc đền bù đối với thửa đất số 90, trên cơ sở nội dung đơn khiếu nại của ông T yêu cầu giải quyết thửa đất số 90, tờ bản đồ 68 mà Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết. Nhưng ông T bà L khởi kiện yêu cầu hủy Quyết định 3678/QĐ-UBND ngày 17/6/2019 của Chủ tịch UBND huyện C về giải quyết khiếu nại lần đầu. Trong hồ sơ không có Quyết định 3678/QĐ-UBND ngày 17/6/2019, do vậy không xác định được nội dung, hình thức của quyết định. Tòa án cấp sơ thẩm chưa làm rõ đối với Quyết định 3678/QĐ-UBND ngày 17/6/2019 có liên quan đến thửa đất ông T yêu cầu giải quyết trong vụ án này hay không, nhưng lại giải quyết đối với Quyết định giải quyết khiếu nại số 3690 ngày 17/6/2019 là chưa làm rõ nội dung yêu cầu khởi kiện.
Từ các phân tích và nhận định nêu trên, xét thấy bản án sơ thẩm chưa làm rõ phạm vi, yêu cầu khởi kiện, tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ còn nhiều mâu thuẫn không thể làm rõ tại phiên tòa phúc thẩm, đưa thiếu người tham gia tố tụng, do vậy cần phải hủy bản án sơ thẩm để giải quyết lại vụ án.
5. Bản án hành chính phúc thẩm số 642/2022/HC-PT ngày 25/10/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về việc Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính
Nội dung hủy án:
(i) Người khởi kiện yêu cầu Tòa án: Xác định “hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân Quận X về việc không phổ biến đồ án quy hoạch liên quan đến Quyết định số 1997/QĐ- UB về việc thu hồi và giao đất xây dựng Khu đô thị mới Y ngày 10/5/2002”, xác định “hành vi hành chính của Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận X về việc sử dụng bản đồ bất hợp pháp để áp đặt nhà và đất số D19/10D Khu phố a, phường B, Quận X nằm ngoài Quyết định 367 của Thủ tướng Chính phủ và ngoài Quyết định 13585 của Kiến trúc sư trưởng vào danh sách các hộ dân bị thu hồi theo Quyết định 1997 của Ủy ban nhân dân Thành phố và Bản đồ 02/BB-BQL có ranh giới dự kiến giao đất 930 ha để ban hành các quyết định về điều chỉnh, di chuyển dân cư, quyết định bồi thường, quyết định cưỡng chế và thông báo thời gian cưỡng chế đối với hộ D19/10D Khu phố a, phường B, Quận X” là trái pháp luật. Tòa án nhân dân Quận X đã thụ lý yêu cầu khởi kiện hai hành vi trên trên nhưng Bản án sơ thẩm không nêu nội dung yêu cầu khởi kiện hành vi hành chính của người khởi kiện, không nhận định hai hành vi trên có phải là hành vi hành chính bị kiện (thuộc đối tượng khởi kiện của vụ án hành chính) hay không, tuy nhiên trong phần quyết định của bản án đã đình chỉ đối với yêu cầu này và căn cứ tạm đình chỉ cũng không được ghi trong bản án là vi phạm quy định Điều 194 Luật Tố tụng hành chính năm 2015.
(ii) Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 26/9/2022, người bảo vệ của Ủy ban nhân dân thành phố T cung cấp cho Tòa án Quyết định số 893/QĐ-UBND ngày 27/3/2019 của Ủy ban nhân dân Quận X, Quyết định số 6289/QĐ-UBND-TTr ngày 22/12/2017 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận X nhưng người khởi kiện không rút đơn khởi kiện và không rút yêu cầu kháng cáo. Xét thấy, đây là tình tiết mới phát sinh sau phiên tòa sơ thẩm. Theo quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 235 thì Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án để xét xử sơ thẩm lại.
Như vậy, do bản án sơ thẩm có vi phạm quy định của Luật Tố tụng hành chính và có tình tiết mới phát sinh sau phiên tòa sơ thẩm nên Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ điểm đ Khoản 3 Điều 191, Điều 194, điểm b Khoản 2 Điều 235, Khoản 3 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính hủy Bản án số 01/2017/ HCST ngày 20/01/2017 của Tòa án nhân dân Quận X để xét xử sơ thẩm lại.
6. Bản án hành chính phúc thẩm số 279/2024/HC-PT ngày 08/5/2024 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội về việc Khiếu kiện Quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý Nhà nước về đất đai
Nội dung sửa án:
(i) Tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của UBND quận L thừa nhận Biên bản kiểm đếm ngày 10/12/2019 thiếu tài sản nhưng cho đến nay vẫn chưa ban hành quyết định bổ sung thay thế do vụ án đang được Tòa án giải quyết.
(ii) Ngoài ra, như trên đã phân tích, công trình xây dựng của hộ gia đình tạo lập trước ngày 01/7/2004 và không có văn bản xử lý của cơ quan có thẩm quyền. Quy định tại Điều 23 Quyết định 10/2017/QĐ-UBNDUBND của thành phố Hà Nội đã cho phép các trường hợp này được hưởng các hỗ trợ đối với hộ gia đình cá nhân sử dụng đất nông nghiệp đối với trường hợp chuyển đổi sau ngày 15/10/1993 đến trước ngày 1/7/2004. UBND quận L không phê duyệt cho hộ gia đình hưởng hỗ trợ trên đã làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của ông N.
Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại phiên tòa về việc chấp nhận một phần kháng cáo của người khởi kiện, hủy Quyết định số 6920/QĐ- UBND của UBND quận L là có căn cứ.
7. Bản án hành chính phúc thẩm số 822/2023/HC-PT ngày 13/11/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội về việc Yêu cầu hủy quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai
Nội dung sửa án:
Vì vậy, có cơ sở xác định diện tích 260m2 đất hộ gia đình bà T bị thu hồi có nguồn gốc là đất nông nghiệp được giao khoán 10; hộ gia đình bà T đã tự chuyển đổi mục đích sử dụng đất sang xây dựng công trình để ở T điểm từ sau ngày 15/10/1993 đến trước ngày 01/7/2004 mà không có văn bản ngăn chặn xử lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì ngoài việc được bồi thường theo giá đất nông nghiệp theo quy định, còn được hỗ trợ bằng 40% đơn giá đất ở theo bảng giá đất của UBND Thành phố HN theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 23 Quyết định số 10/2017/QÐ-UBND ngày 29/3/2017 của UBND thành phố HN.
Đối với các khoản hỗ trợ khác: Bà T là vợ liệt sỹ hy sinh T kỳ chống Mỹ và có bố chồng là liệt sỹ trong T kỳ chống Pháp theo quy định điểm d khoản 3 Điều 24 Quyết định số 10/2017/QÐ-UBND ngày 29/3/2017 của UBND thành phố HN thì hộ gia đình bà T được hỗ trợ thêm 4.000.000đồng.
Tại Quyết định số 6925/QĐ-UBND chỉ bồi thường về đất nông nghiệp, bồi thường, hỗ trợ về tài sản trên đất, hỗ trợ ổn định đời sống, đào tạo nghề và thưởng tiến độ mà không hỗ trợ bằng 40% đơn giá đất ở theo bảng giá đất của UBND thành phố HN và hỗ trợ đối với gia đình chính sách là không đúng quy định của Quyết định số 10/2017/QÐ-UBND ngày 29/3/2017 của UBND thành phố HN, ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của hộ gia đình bà T. Bà T kháng cáo đề nghị hủy Quyết định số 6925/QĐ-UBND là có căn cứ; chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại HN sửa quyết định của Bản án hành chính sơ thẩm theo hướng chấp nhận 1 phần yêu cầu khởi kiện của bà T hủy Quyết định số 6925/QĐ-UBND.
8. Bản án hành chính phúc thẩm số 342/2023/HC-PT ngày 18/9/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng về việc Kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai
Nội dung sửa án:
(i) Xét thấy, việc Ủy ban nhân huyện hủy bỏ nội dung thu hồi thửa đất số 498, tờ bản đồ số 11 nên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số G695301 ngày 10/8/1995 đối với diện tích 4.487 m2 đất, trong đó: thửa đất 498, tờ bản đồ 11, diện tích 1092m2, loại đất thổ cư đã được cấp GCNQSDĐ lần đầu này tiếp tục là căn cứ để xác định nguồn gốc sử dụng đất để công nhận quyền sử dụng đất và giải quyết việc bồi thường. Về quy hoạch mới diện tích 1092m2, loại đất thổ cư của hộ bà Mai Thị T6 bị thu hồi là để thực hiện dự án khu đô thị N đến nay dự án đã được triển khai, hoạt động. Việc ban hành Quyết định 5228 công nhận và thu hồi diện tích theo hiện trạng sử dụng của bà Mai Thị T6 đáng lý ra phải công nhận toàn bộ diện tích 1092m2 đất là đất ở tại nông thôn mới đúng nhưng lại chỉ công nhận 300m2 đất ở tại nông thôn, còn diện tích 792m2 công nhận là đất trồng cây lâu năm là trái pháp luật.
Vì vậy, kháng cáo của người khởi kiện về yêu cầu: hủy 1 phần nội dung Quyết định 228 về việc xác định 792m2 đất trồng cây lâu năm (có nguồn gốc đất vườn ao); buộc UBND huyện ban hành quyết định bổ sung công nhận 792m2 đất trồng cây lâu năm sang thành 792m2 đất ở là có căn cứ chấp nhận.
(ii) Từ việc Quyết định số 228 về việc xác định 792m2 đất ở là đất trồng cây lâu năm nêu trên là không đúng dẫn tới việc ban hành các quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cũng như các quyết định khác về việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư của UBND huyện D cũng không đúng pháp luật.
Như vậy, nội dung Quyết định số 5229/QĐ-UBND ngày 14/9/2020 của UBND huyện D về phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư công trình Khu đô thị N (đợt 13) lại xác định: 01 lô đã bố trí trong đợt này và 01 lô đã bố trí theo diện di dời sạt lở năm 2007 cũng như Quyết định 7104/QĐ-UBND ngày 18/12/2020 của UBND huyện D về phê duyệt điều chỉnh, bổ sung Quyết định số 5229/QĐ-UBND ngày 14/9/2020 của UBND huyện D phê duyệt điều chỉnh bổ sung từ 01 lô thành “02 lô” đất tái định cư, trong đó có nội dung lại xác định là 01 lô đã bố trí theo diện di dời sạt lở năm 2007 là chưa tương xứng và không đúng theo quy định của pháp luật.
Xét thấy, việc giao đất tái định cư diện xói lở diện tích 150,4m2 tại thửa số 524, tờ bản đồ số 11 để hộ bà Mai Thị T6 xây dựng nhà ở, bà T6 đã được cấp GCNQSDĐ từ năm 2007 không có liên quan đến dự án khu đô thị N nên nội dung xác định là 01 lô đất đã bố trí theo diện di dời sạt lở năm 2007 tại các quyết định trên là không đúng pháp luật.
(iii) Tại phiên tòa phúc thẩm ông T xác định việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho hộ bà Mai Thị T6 mới chỉ được bố trí 01 lô đất số CL9 - 30 trong đợt này nên kháng cáo yêu cầu UBND huyện D tiếp tục bố trí thêm 02 lô đất tái định cư mới khi thực hiện dự án Khu đô thị N. Do vậy, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp người khởi kiện cũng như quyền lợi của những người thừa kế tài sản của bà Mai Thị T6. Xét thấy, cần chấp nhận kháng cáo của ông T, hủy các quyết định Quyết định số 5229; Quyết định 7104/QĐ-UBND ngày 18/12/2020 của UBND huyện D về phê duyệt điều chỉnh, bổ sung Quyết định số 5229;Quyết định số 5310/QĐ-UBND ngày 17/9/2020 của UBND huyện D và các quyết định khác có liên quan đến nội dung xác định 792m2 đất là đất trồng cây lâu năm do UBND huyện D đã ban hành. Buộc UBND huyện D ban hành lại quyết định bổ sung về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư Khu đô thị N và quyết định về việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho hộ bà Mai Thị T6, bố trí đất tái định cư cho hộ gia đình bà Theo 03 lô đất theo quy định tại điểm b, khoản 4 Điều 11a Quyết định số 19/2017/QĐ - UBND ngày 05/9/2017 của UBND tỉnh Q v.v sửa đổi bổ sung một số điều về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
9. Bản án hành chính phúc thẩm số 282/2023/HC-PT ngày 23/8/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng về việc Khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai
Nội dung sửa án:
Đối với yêu cầu hủy một phần Quyết định số 8516/QĐ –UBND ngày 05/10/2022 của UBND thành phố B về việc Phê duyệt giá đất để tính tiền bồi thường đường H đoạn đường từ ngã 6 đến đường Đ: trên cơ sở Quyết định số 22/2020/QĐ-UBND ngày 03/7/2020 của UBND tỉnh Đ về việc ban hành quy định Bảng giá các loại đất trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, UBND thành phố B phê đã duyệt giá đất cụ thể để tính tiền bồi thường về đất cũng như việc xây dựng giá đất để giao đất tái định cư; giao đất có thu tiền sử dụng đất không thông qua đấu giá cho các hộ trong năm 2022. Tuy nhiên, giá đất tại khu vực trung tâm đường H đoạn từ ngã sáu trung tâm đến đường Đ giá đất tính để bồi thường là 33.993.000 đồng/m2. Ông P cho rằng Ủy ban nhân dân tỉnh Đ ban hành giá đất bồi thường không phù hợp với giá đất thực tế tại thời điểm phê duyệt phương án bồi thường và không phù hợp với giá đất tái định cư; bởi vì ngay khu vực bên cạnh cùng là khu vực trung tâm của thành phố, bề rộng mặt đường như nhau nhưng đường L đoạn từ đường T đến đường L và một số tuyến đường khác giá đất được tính là 64.000.000 đồng/m2 , chênh lệch quá lớn, thấp hơn gần gấp đôi, gây thiệt hại cho gia đình ông. Tại phiên toà ông P cung cấp cho Hội đồng xét xử Chứng thư thẩm định giá của Công ty TNHH T12 ngày 09/8/2023 thì giá đất tại khu vực nhà ông P được xác định là 58.700.041 đồng/m2. Xét thấy, tuy Chứng thư thẩm định giá ngày 09/8/2023 không đảm bảo đầy đủ về tính pháp lý nhưng phần nào đó cũng là cơ sở để xem xét, so sánh với giá đất bồi thường cho gia đình ông P là 33.993.000 đồng/m2 có sự chênh lệch quá nhiều.
Do đó, có cơ sở để xác định giá đất tại khu vực đường H đoạn từ ngã sáu trung tâm đến đường Đ giá đất UBND thành phố Buôn Ma Thuột căn cứ vào giá đất do UBND tỉnh Đ quy định để tính bồi thường cho ông P không phù hợp với thực tế.
10. Bản án hành chính phúc thẩm số 433/2023/HC-PT ngày 19/6/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh về việc Khiếu kiện quyết định hành chính về quản lý đất đai
Nội dung sửa án:
Quyết định số 3731 có nội dung: Giữ nguyên … Quyết định số 2333 … Đề nghị ông Lê Đình T chấp hành Quyết định số 397 và Quyết định số 2333, mà không có nội dung:“Về việc: Cưỡng chế thu hồi 53,10 m2, địa điểm vi phạm: Một phần thửa 92, 96, một phần đường, một phần thuộc tờ bản đồ số 1 (Tài liệu 02/CT-UB), nay thuộc một phần thửa đất số 62, một phần thửa đất số 70, tờ bản đồ số 43 (Tài liệu bản đồ 2003), Khu phố 4, phường Tân Thuận Tây, Quận 7”, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm lại tuyên hủy Quyết định số 3731 “Về việc: Cưỡng chế thu hồi 53,10 m2, địa điểm vi phạm: Một phần thửa 92, 96, một phần đường, một phần thuộc tờ bản đồ số 1 (Tài liệu 02/CT-UB), nay thuộc một phần thửa đất số 62, một phần thửa đất số 70, tờ bản đồ số 43 (Tài liệu bản đồ 2003), Khu phố 4, phường Tân Thuận Tây, Quận 7”, là nội dung không có thể hiện trong Quyết định số 3731, Bản án sơ thẩm tuyên như trên là không đúng.
Từ phân tích tại mục [5] và mục [6] nêu trên, tại Điều 1 của Quyết định số 3731 có nội dung giữ nguyên Quyết định số 2333 là không đúng, còn Điều 2 của Quyết định số 3731 có nội dung đề nghị ông Lê Đình T chấp hành Quyết định số 397 và Quyết định số 2333 thì đây chỉ là lời đề nghị, không phải là mệnh lệnh hành chính bắt buộc ông Lê Đình T phải chấp hành, nên không nhất thiết phải hủy nội dung ghi tại Điều 2 của Quyết định số 3731. Vì vậy, chỉ cần sửa một phần Bản án sơ thẩm đối với việc giải quyết yêu cầu khởi kiện Quyết định số 3731 là phù hợp.