MỤC LỤC
1. Bản án hành chính phúc thẩm số 314/2023/HC-PT ngày 07/9/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng về việc Khiếu kiện quyết định hành chính hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai
Nội dung hủy án:
Tòa án sơ thẩm căn cứ vào đơn khởi kiện của người khởi kiện thụ lý vụ án hành chính với yêu cầu khởi kiện: Yêu cầu hủy quyết định 4423/QĐ-UBND ngày 9/9/2021 của Chủ tịch UBND huyện T về việc giải quyết khiếu nại của ông Trần Văn L, buộc UBND huyện T trả lại 240 m2 đất cho ông Trần Văn L. Tại bản tự khai ngày 23/8/2022 người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện vợ chồng ông Trần Văn L, bà Lê Thị L1 (BL 301) trình bày: “…, nay tôi viết đơn này yêu cầu TAND tỉnh Bình Định giải quyết những vấn đề sau đây đối với người bị kiện và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: - Yêu cầu hủy quyết định 4423/QĐ-UBND ngày 9/9/2021 của Chủ tịch UBND huyện T về việc giải quyết khiếu nại của ông Trần Văn L, yêu cầu hủy Quyết định 2283/QĐ-UBND ngày 1/7/2016 của Chủ tịch UBND huyện T, tỉnh Bình Định...”; Tòa án sơ thẩm không thụ lý và bổ sung các yêu cầu của người khởi kiện theo quy định tại Điều 8 LTTHC và giải quyết trong cùng vụ án là thiếu sót, sau khi xét xử sơ thẩm người khởi kiện kháng cáo yêu cầu Tòa án phúc thẩm xem xét: Hủy toàn bộ Quyết định số 4917/QĐ-UBND ngày 24/11/2015 của Chủ tịch UBND huyện T, Hủy một phần Quyết định 2283/QĐ-UBND ngày 1/7/2016 của chủ tịch UBND huyện T, tỉnh Bình Định, hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và QSH nhà ở và tài sản gắn liền với đất của ông Trình Công T, bà Lê Thị S; Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và QSH nhà ở và tài sản gắn liền với đất của ông Văn Thành V1, bà Phạm Thị Thúy O; nhưng toàn bộ các quyết định trên chưa được cấp sơ thẩm xem xét và giải quyết. Mặt khác, Tòa án sơ thẩm thụ lý giải quyết yêu cầu của người khởi kiện về việc buộc UBND huyện T phải trả lại 240 m2 đất cho ông Trần Văn L và bà Lê Thị L1 là không đúng theo quy định của Luật tố tụng hành chính; nguyên nhân của việc thụ lý thiếu sót và không đúng có lỗi của người khởi kiện, Tòa án sơ thẩm thiếu sót là khách quan. Để xem xét các quyết định hành chính có liên quan đến diện tích đất của gia đình ông Trần Văn L và bà Lê Thị L1 đang sử dụng nhưng UBND huyện T giao cho người khác, Hội đồng xét xử hủy toàn bộ Bản án sơ thẩm và giao hồ sơ vụ án cho Tòa án sơ thẩm giải quyết lại theo đúng quy định của Luật tố tụng hành chính.
2. Bản án hành chính phúc thẩm số 254/2023/HC-PT ngày 20/4/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh về việc Khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai về việc yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Nội dung hủy án:
(i) Xét căn cứ cấp các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: Các chứng cứ thể hiện các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH 965108, số CH 965109, số CH 965110 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bình Dương cấp cùng ngày 05/6/2017 cho ông Nguyễn Minh V, ông Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị H1, ông Nguyễn Văn H2, bà Nguyễn Thị L, ông Nguyễn Công L1 trên cơ sở kê khai thừa kế quyền sử dụng đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 77 QSDĐ/PT ngày 26/3/1996 do UBND thị xã (nay là thành phố) M cấp cho cụ Ngô Thị Q. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 77 QSDĐ/PT ngày 26/3/1996 do UBND thị xã M cấp cho cụ Q trên cơ sở các quyết định gồm Quyết định số 42/QĐ.UB ngày 29/6/1994 của UBND thị xã M, Quyết định số 1572/QĐ.UB ngày 22/4/1995 và Quyết định số 5564/QĐ-UB ngày 23/12/1995 của UBND tỉnh Sông Bé, Quyết định số 176/QĐ-UB ngày 26/3/1996 của UBND thị xã M. Trong trường hợp này, mặc dù ông M không khởi kiện các Quyết định số 42/QĐ.UB, 1572/QĐ.UB, 5564/QĐ.UB, và 176/QĐ-UB, nhưng đây là các quyết định có liên quan đến quyết định bị khởi kiện nên khi giải quyết vụ án Tòa án cũng cần phải xem xét tính hợp pháp, tính có căn cứ của các quyết định nêu trên.
(ii) Theo phía gia đình bà Hồng trình bày thì khu đất ông M yêu cầu hủy các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên có nguồn gốc của cố Ngô Văn T3, diện tích 4,05ha, tọa lạc tại xã Phú Hòa, thị xã M, tỉnh Bình Dương theo Trích lục địa bộ số 283 ngày 27/8/1971 (BL 745). Tại Tòa án cấp phúc thẩm, bà Nguyễn Thị H1 cung cấp bản phô tô Tờ trích lục địa bộ số 152 ngày 24/6/1974 (BL 746) để chứng minh cho việc cụ Q được các đồng thừa kế của cụ T3 đồng ý cho hưởng phần đất 4,05ha nêu trên. Bản trích lục địa bộ số 152 ngày 24/6/1974 có nội dung “Điều chỉnh diện tích trở lại là 2.54.59. thay vì 2.30.00 số địa bộ 152 chiếu biên bản đo cấm ranh và phân chiết của Trắc Địa Sư Nguyễn Văn Hoài lập tại Phú Cường ngày 17/3/1974 do Ty Điền Địa Bình Dương duyệt số 531Đ Đ, BD/KT.KS ngày 17/5/1974 và chiếu theo đơn xin của Ngô Thị Q thừa kế của Ngô Văn T3 ngày 3/4/1974, trước bạ ngày 9/4/74, quyển 16, tờ 31, số 161, cước bộ ngày 4/6/74, số 391…
… Các cuộc di chuyển: Các thừa kế của Ngô Văn T3 đồng thỏa thuận chiết bán cho. 1) Vợ chồng Nguyễn Thị Năm và T3 Văn Thế lô C, diện tích 0.69.77; vợ chồng Tiêu Thị Ba, Nguyển Văn Gắt lô B, diện tích 0.53.33 chiếu theo biên bản đo cắm ranh và phân chiết của Trắc địa sư Nguyễn Văn Hoài lập tại Phú Cường ngày 17/3/73 do Ty Điền địa Bình Dương duyệt số 531 Đ ĐBD/KT.KS ngày 17/5/74 chiếu theo tờ bán chiết và tông chi trước bị tại Phú Cường ngày 9/4/74 quyển 16, tờ 31, số 159, 160 cước bộ ngày 4/9/74, số 392 (xem khoản 1095, 1096)”. Bà Hồng còn nộp bản chính Biên lai thu thuế 119586 (BL 724) và trình bày đây là biên lai đóng thuế đất vườn của cụ Q năm 1975, theo Biên lai này thì diện tích đất cụ Q đóng thuế là 1ha. Như vậy, các chứng cứ này có sự mâu thuẫn với nhau. Vì Bà Hồng cho rằng cụ Q được thừa kế của cố T3 4,05ha đất, tọa lạc tại xã Phú Hòa, thị xã M, tỉnh Bình Dương theo Trích lục địa bộ số 283 ngày 27/8/1971, nhưng tại nội dung Bản Trích lục địa bộ số 152 ngày 24/6/1974 thể hiện khu đất của cố T3 đã có sự chuyển nhượng cho nhiều người khác; theo Biên lai nộp thuế ngày 22/10/1974, diện tích đất cụ Q đóng thuế là 4,05ha, nhưng theo Biên lai nộp thuế ngày 06/01/1975 thì diện tích đất cụ Q đóng thuế chỉ là 1ha.
(iii) Tại nội dung các Quyết định số 42/QĐ.UB, 1572/QĐ.UB, 5564/QĐ.UB, 176/QĐ-UB và các văn bản của các cơ quan có thẩm quyền ban hành trong quá trình giải quyết khiếu nại gồm Báo cáo số 38/BC/ĐĐ ngày 10/12/1994 của Chi cục quản lý đất đai tỉnh Sông Bé, Báo cáo số 71/BC/Ttr của ngày 20/10/1995 của Thanh tra tỉnh Sông Bé, Báo cáo số 20/BC-UBND ngày 28/01/2015 của UBND thành phố M đã căn cứ vào các chứng cứ gồm bản Trích lục địa bộ số 283 ngày 27/8/1971; Bản trích lục địa bộ số 152 ngày 24/6/1974; Đơn xin khiếu nại của ông Đoàn Tấn L1 ngày 02/5/1993; Biên bản giải quyết đơn khiếu nại của cụ Ngô Thị Q do UBND xã Phú Hòa lập ngày 31/5/1993… từ đó cho rằng nguồn gốc đất tranh chấp của cố T3 và cụ Q được các đồng thừa kế của cố T3 đồng thuận lập tờ ủy quyền cho cụ Q được quyền sử dụng. Các văn bản này cũng cho rằng bà K1, ông L1 đã thừa nhận đất tranh chấp là của cụ Q, từ đó buộc bà K1 phải trả đất cho cụ Q. Tuy nhiên, Bản Trích lục địa bộ số 152 ngày 24/6/1974 thể hiện khu đất của cố T3 đã có sự chuyển nhượng cho nhiều người khác, nên chưa xác định diện tích đất còn lại chính xác là bao nhiêu. Các chứng cứ làm căn cứ ban hành các quyết định nêu trên trong hồ sơ vụ án đều là bản phô tô không có công chứng, chứng thực hợp pháp, nên chưa đảm bảo cho việc đánh giá các chứng cứ này một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ và chính xác.
(iv) Trong khi đó, trong quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm, ông M cũng cung cấp các chứng cứ trong hồ sơ vụ án gồm Giấy chứng nhận đã đăng ký ruộng đất ngày 30/10/1983 thể hiện ông L1 đã đăng ký diện tích đất là 6.500m2; các Biên lai thuế do ông M cung cấp thể hiện gia đình ông L1 đã đóng thuế liên tục tử năm 1983 đến năm 2011. Ông M còn cung cấp Bản tường trình của bà K1 ngày 15/12/1998, Đơn xin xác nhận của ông Đoàn Tấn L1 ngày 22/3/2005 có nội dung 6.500m2 đất này có nguồn gốc của cố T3 để lại, cụ Ng là cháu nội cố T3 về ở trên đất từ năm 1972. Chứng cứ này đều được UBND phường Phú Thọ xác nhận nội dung ông L1, bà K1 trình bày là đúng. Như vậy, theo các chứng cứ của ông M cung cấp đã thể hiện gia đình cụ Ng sau đó là bà K1, ông L1, ông M đã sử dụng đất tranh chấp từ năm 1972, đã đăng ký kê khai, được cấp Giấy chúng nhận đã đăng ký ruộng đất từ năm 1983 và có thực hiện nghĩa vụ thuế với nhà nước đến năm 2011. Đa số các chứng cứ ông M cung cấp đều là bản phô tô, không có công chứng, chứng thực. Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm, phía ông M cho rằng hiện nay ông M vẫn lưu giữ bản chính các chứng cứ là bản phô tô mà ông M đã nộp cho Tòa án cấp sơ thẩm. Do đó, việc phải thu thập bản chính hoặc bản sao (được công chứng, chứng thực hợp pháp) đối với các chứng cứ ông M đã nộp cho Tòa án cấp sơ thẩm để làm căn cứ giải quyết vụ án là rất cần thiết.
(v) Về phía gia đình bà Hồng, trong quá trình giải quyết vụ án, bà Hồng cũng cung cấp các Biên lai nộp thuế và cho rằng gia đình bà Hồng đã đóng thuế đối với diện tích đất tranh chấp từ năm 1995 đến nay. Mặt khác, theo Phiếu lấy ý kiến (bản phô tô) của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố M ngày 03/02/2017 phục vụ cho việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Vũ, ông Hoàn, bà Hồng có nội dung xác định diện tích đất tranh chấp do gia đình bà Hồng sử dụng ổn định từ năm 1996, nhưng như đã nhận định ở phần trên phía ông M cũng cung cấp chứng cứ là các biên lai đóng thuế quyền sử dụng đất và cho rằng biên lai này đóng thuế cho phần đất tranh chấp. Như vậy, các chứng cứ do các bên cung cấp mâu thuẫn với nhau về quá trình sử dụng đất tranh chấp, mâu thuẫn trong việc chứng minh cho việc đã nộp thuế sử dụng đất đối với khu đất tranh chấp nhưng Tòa án cấp sơ tẩm chưa làm rõ những mâu thuẫn này.
(vi) Mặt khác, theo Quyết định số 120/QĐ.UB ngày 10/10/1993 của UBND xã Phú Hòa nội dung ghi nhận bà K1 được sử dụng 2.500m2 đất, nhưng thực tế hiện nay gia đình ông M chỉ sử dụng có 1.946m2. Quyết định này cũng chưa bị hủy bỏ. Do đó, khi xem xét các quyết định hành chính giải quyết khiếu nại về tranh chấp khu đất nêu trên và khi xét xử vụ án thì cũng cần phải xem xét đến Quyết định số 120/QĐ.UB ngày 10/10/1993 của UBND xã Phú Hòa, đồng thời cần phải đưa UBND xã (nay là phường) Phú Hòa vào tham gia tố tụng thì mới đúng quy định của pháp luật.
(vii) Lẽ ra, khi giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm phải tiến hành thu thập thêm các chứng cứ nêu trên trong quá trình giải quyết khiếu nại và các chứng cứ liên quan khác theo quy định tại Điều 82 và Điều 84 Luật tố tụng hành chính; phải đánh giá chứng cứ một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác và phải đánh giá sự liên quan giữa các chứng cứ với nhau, để làm rõ được các mâu thuẫn như đã nhận định ở phần trên thì mới đủ cơ sở xác định các quyết định hành chính bị khởi kiện và các quyết định hành chính liên quan có được ban hành đúng quy định của pháp luật hay không, từ đó mới có cơ sở chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông M. Tuy nhiên, trong khi Tòa án cấp sơ thẩm chưa thu thập, xác minh làm rõ các chứng cứ này, nhưng đã tuyên bác yêu cầu khởi kiện của ông M là chưa đủ căn cứ vững chắc.
3. Bản án hành chính phúc thẩm số 347/2023/HC-PT ngày 20/9/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng về việc Khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai
Nội dung hủy án:
(i) Đối với yêu cầu hủy chỉnh lý biến động tại Giấy CNQSDĐ số CH 587135 vào ngày 18/3/2019: Ngày 05/3/2019, vợ chồng ông Võ Văn H1, bà Phạm Thị N1 đã chuyển nhượng thửa đất này cho vợ chồng ông Nguyễn Thế L, bà Nguyễn Thị H2 được chi nhánh Văn phòng Đăng ký Đất đai huyện K, tỉnh Đắk Lắk chỉnh lý biến động tại Giấy CNQSDĐ số CH 587135 vào ngày 18/3/2019. Như phân tích mục [2.1] thì Giấy CNQSDĐ số CH 587135 cấp không đúng diện tích, dẫn đến việc chỉnh lý biến động sang tên cho ông L và bà H2 cũng không đúng, làm ảnh hưởng quyền và lợi ích hợp pháp của ông N và bà T. Nhưng Tòa án sơ thẩm không đưa cơ quan có thẩm quyền thực hiện nhiệm vụ chỉnh lý biến động sang tên cho ông bà L, H2 tại Giấy CNQSDĐ số CH 587135 vào tham gia tố tụng trong vụ án. Hơn nữa, tại Bản án sơ thẩm có nhận định Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện K thiếu trách nhiệm trong việc kiểm tra hồ sơ, không xác minh diện tích trên thực địa đối với thửa đất số 26, mà xác nhận đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đối với thửa đất số 26 với diện tích 14.047m2, là vi phạm điểm d khoản 3 Điều 70 Nghị định số: 43/2014/NĐ-CP. Tại cấp phúc thẩm HĐXX không thể bổ sung, khắc phục được, không đảm bảo cho đương sự thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình theo quy định tại Điều 55 Luật Tố tụng Hành chính.
(ii) Ngày 01/4/2019, ông Nguyễn Thế L và bà Nguyễn Thị H2 ký với Ngân hàng TMCP B – Chi nhánh Đ – P1 Hợp đồng tín dụng vay vốn với tài sản đảm bảo là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất theo Giấy CNQSDĐ số CH 587135. Vì không thực hiện đúng các cam kết không trả nợ gốc và lãi đúng hạn nên Ngân hàng đã khởi kiện, Tòa án nhân dân huyện EaHleo đã ra Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 64/2020/QĐST – DS ngày 26/4/2020. Tòa án sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu hủy phần chỉnh lý biến động tại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, theo đó cũng không xem xét sự kiện này là không triệt để vụ án.
4. Bản án hành chính phúc thẩm số 28/2023/HC-PT ngày 13/01/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh về việc Khiếu kiện Quyết định hành chính
Nội dung hủy án:
Tại đơn yêu cầu độc lập ngày 10/5/2022 của ông S và ông Q cho rằng, năm 1997 các ông đã nhận chuyển nhượng các thửa đất 179, 198, 199 tờ bản đồ số 13, khi sang nhượng có lối đi chung rộng 3m, từ đường lớn đi ngang qua thửa đất số 12, tờ bản đồ số 29, để đi vào các thửa đất 179, 198, 199. Đến tháng 5/2021, ông Th và bà Th1 lấn chiếm lối đi này nên xảy ra tranh chấp, ông S và ông Q yêu cầu hủy phần giấy chứng nhận cấp lối đi chung này cho ông D, đã đăng ký biến động sang tên ông Th và bà Th1 (BL: 118, 124). Tại phiên tòa phúc thẩm, các đương sự cũng xác định nội dung kiện tranh chấp lối đi, trong đó có yêu cầu hủy giấy chứng nhận QSD đối với phần diện tích lối đi. Như vậy, đây là vụ kiện “Tranh chấp lối đi”, trong đó có yêu cầu hủy giấy chứng nhận QSDĐ đối với diện tích lối đi chung cấp cho ông D, đăng ký biến động sang tên ông Th và bà Th1 là tranh chấp dân sự được quy định tại khoản 9 Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Do vậy, Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý, giải quyết theo thủ tục tố tụng hành chính là không phù hợp với quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 123 Luật Tố tụng hành chính năm 2015. Do đó áp dụng khoản 4 Điều 34 Luật Tố tụng hành chính năm 2015, hủy một phần bản án đối với yêu cầu độc lập của ông S và ông Q; chuyển hồ sơ về cho Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng để giải quyết yêu cầu của ông S và ông Q theo thủ tục tố tụng dân sự sơ thẩm.
5. Bản án hành chính phúc thẩm số 990/2023/HC-PT ngày 21/11/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh về việc Khiếu kiện các quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai
Nội dung hủy án:
(i) Ngày 12/9/2014, ông Trần Văn K khởi kiện vụ án hành chính đề nghị huỷ Quyết định số 5227/QĐ-UBND; Quyết định 519/QĐ-UBND và Quyết định 1608/QĐ-UBND nêu trên, nhưng ngày 26/01/201, bà Hoàng Thị L lập hợp đồng chuyển nhượng Thửa đất số 76, Tờ bản đồ 16 cho ông Hà Duy P và ngày 14/02/2015, Uỷ ban nhân dân huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Phương là không đúng; vì tại thời điểm chuyển nhượng ông Trần Văn K đã khởi kiện vụ án hành chính và là người đang sử dụng thửa đất nêu trên, thửa đất đang có tranh chấp giữa ông Trần Văn K và bà Hoàng Thị L , nên không thể xác định ông Phương là người thứ ba ngay tình. Vì vậy, Quyết định số 519/QĐ-UBND ngày 12/3/2014 của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện C và quyết định số 1608/QĐ-UBND ngày 24/7/2014 của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Bình Phước là không đúng quy định của pháp luật. Ngày 14/02/2015, Uỷ ban nhân dân huyện C cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất ở số BX 859739 cho ông Hà Duy P là không đúng.
(ii) Ngoài ra, tại phiên toà phúc thẩm có tình tiết mới, cụ thể: sau khi Bản án phúc thẩm số 877/2019/HC-PT ngày 02/12/2019 có hiệu lực pháp luật, vào ngày 09/4/2020 ông Hà Duy P đã chuyển nhượng Thửa đất số 76, Tờ bản đồ 16 nêu trên cho ông Nguyễn Hoàng L và ngày 25/5/2020 Uỷ ban nhân dân tỉnh Bình Phước đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CU 793732 cho ông Nguyễn Hoàng L đứng tên, đến ngày 08/4/2022 ông Lân chuyển nhượng thửa đất này cho bà Nguyễn Thị Mai P. Do đó, cần phải xem xét tính hợp pháp của Quyết định hành chính này và đưa ông Nguyễn Hoàng L, bà Nguyễn Thị Mai P vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Vì vậy cần huỷ một phần Bản án sơ thẩm số 03/2017/HC-ST ngày 31/3/2017 của Toà án nhân dân tỉnh Bình Phước về phần liên quan đến Quyết định số 519/QĐ-UBND ngày 12/3/2014 của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện C, Quyết định số 1608/QĐ-UBND ngày 24/7/2014 của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Bình Phước và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BX 859739 ngày 14/02/2015 do Uỷ ban nhân dân huyện C cấp cho ông Hà Duy P. Đây là tình tiết mới nên việc huỷ một phần Bản án sơ thẩm thì Toà án cấp sơ thẩm không có lỗi.
6. Bản án hành chính phúc thẩm số 248/2023/HC-PT ngày 14/8/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng về việc Yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Nội dung sửa án:
(i) Ngày 05 tháng 3 năm 2002, bà Đoàn Thị Í được UBND huyện Q (nay là thị xã B) cấp GCNQSDĐ lần đầu tại thửa đất số 548, tờ bản đồ số 02 xã Q với diện tích 227m2. Tại thời điểm cấp GCNQSDĐ cho bà Í thì trên đất này đang tồn tại hai ngôi nhà của ông T và bà N, là tài sản của ông T và bà N. Ông T, bà N chết thì tài sản này thuộc di sản thừa kế của người thừa kế theo quy định của pháp luật về thừa kế. Theo lời trình bày của ông Đoàn Y và xác nhận của UBND xã Q (B 12, 13) ông Đoàn T và bà Nguyễn Thị N có 02 người con là ông Đoàn Y và bà Đoàn Thị E, bà E là Liệt sĩ chống Pháp. Vậy ông Đoàn Y là người thừa kế duy nhất của ông Đoàn T và bà Nguyễn Thị N. Trong khi hồ sơ vụ án không có tài liệu chứng cứ nào chứng minh, bà Í được nhận tài sản này thông qua hợp đồng chuyển nhượng, được thừa kế hoặc được tặng cho. Mặt khác cũng không có tài liệu chứng cứ nào thể hiện việc UBND huyện Q thu hồi diện tích đất này để cấp cho bà Í theo quy định tại Điều 21 Luật đất đai năm 1993. Như vậy, quá trình thẩm định và cấp GCNQSDĐ của UBND huyện Q (nay là thị xã B) đã không thực hiện đúng quy định tại điểm e, g khoản 3 mục 1, chương 3 Thông tư 1990/2001/TT-TCĐC ngày 30/11/2001 của T4 về Hướng dẫn đăng ký đất đai, lập hồ sơ địa chính và cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tức là khi nhận hồ sơ, cơ quan địa chính cấp huyện phải tiến hành thẩm định đất có đủ điều kiện được cấp GCNQSDĐ hay không, trên đất có tài sản như thế nào, của ai; khi đủ điều kiện mới trình cấp có thẩm quyền xem xét cấp GCNQSDĐ. Do đó, việc cấp GCNQSDĐ cho bà Í của UBND huyện Q (nay là thị xã B) không đúng pháp luật.
(ii) Sau khi được cấp GCNQSDĐ ngày 10/5/2013 bà Đoàn Thị Í được UBND thị xã B cấp đổi thành GCNQSDĐ số BM 608234 tại thửa đất số 718, tờ bản đồ số 06 xã Q với diện tích 222m2. Ngày 17/9/2014, bà Í lập hợp đồng tặng cho con gái bà Lê Thị Hải  toàn bộ thửa đất và tài sản trên đất, bà  đã được UBND thị xã B cấp GCNQSDĐ số BV 397973 ngày 16/01/2015 tại thửa đất số 718, tờ bản đồ số 06 xã Q với diện tích 222m2. Việc người khởi kiện yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào sổ 00711/QSDĐ/122/QĐ-UB ngày 05/3/2002 của UBND huyện Q cấp cho bà Đoàn Thị Í; GCNQSDĐ số BM 608234 ngày 10/5/2013 của UBND thị xã B cấp cho bà Đoàn Thị Í và GCNQSDĐ số BV 397973 ngày 16/01/2015 của UBND thị xã B cấp cho bà Lê Thị Hải Â, Hội đồng xét xử thấy rằng: sau khi được cấp GCNQSDĐ vào năm 2002, bà Í thực hiện thủ tục cấp đổi GCNQSDĐ vào năm 2013 và L1 hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất cho bà  vào năm 2014 là quyền của bà Í. Tuy nhiên, như phân tích ở mục [5], việc UBND huyện Q (nay là thị xã B) cấp GCNQSDĐ vào năm 2002 cho bà Í không đúng pháp luật. Khi bà Í lập hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất này cho bà Lê Thị Hải  thì trên diện tích đất này đang tồn tại tài sản là hai ngôi nhà của ông Đoàn T và bà Nguyễn Thị N. Và từ Quyết định này dẫn dắt đến các Quyết định số BM 608234 ngày 10/5/2013 và Quyết định số BV 397973 ngày 16/01/2015. Do đó, cần chấp nhận toàn bộ yêu cầu của người khởi kiện.
Từ những phân tích và lập luận trên thấy rằng, nguồn gốc nhà và đất tại thửa đất số 548, tờ bản đồ số 02, nay là thửa đất số 718, tờ bản đồ số 06 tại xã Q, huyện Q (nay là thị xã B) là của ông Đoàn T và bà Nguyễn Thị N. Ngày 05/3/2002, UBND huyện Q cấp GCNQSDĐ cho bà Đoàn Thị Í là không đúng pháp luật. Toà án cấp sơ thẩm xử bác yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện là không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện. Kháng cáo của người khởi kiện là có căn cứ, được Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận, sửa Bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện.
7. Bản án hành chính phúc thẩm số 853/2023/HC-PT ngày 28/11/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội về việc Khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai
Nội dung sửa án:
(i) Nguồn gốc thửa đất số 54, tờ bản đồ số 26 thôn L, xã T các đương sự đang tranh chấp là đất thổ cư (đất phi nông nghiệp) do ông cha để lại. Theo Sổ mục kê và Bản đồ 299 là thửa đất số 88, diện tích 462m2. Sổ mục kê ghi tên Đào Văn T3. Theo Bản đồ địa chính 364 (phê duyệt năm 1996) thửa đất số 54, tờ bản đồ số 26 tên chủ sử dụng là ông Đào Văn T3. Phía Bắc giáp chủ sử dụng đất là Đào Văn G; phía Tây giáp chủ sử dụng đất là ông Nguyễn Văn V; Phía Nam và Đông giáp đường đi. Ngày 28/4/1999, ông Đào Văn T2 đại diện cho hộ gia đình kê khai đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thổ cư đối với thửa đất số 54, tờ bản đồ số 26, diện tích 486m2. Hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hộ gia đình ông Đào Văn T2 có kê khai đối với thửa đất số 54, tờ bản đồ số 26, diện tích 486m2 là đất thổ cư cũ và đã được UBND xã T xác nhận ngày 16/8/1999. Ngày 15/9/1999, UBND huyện Đ đã ban hành Quyết định số 388/QĐ-UB cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở nông thôn cho 123 hộ nhân dân xã T, trong đó có trường hợp hộ gia đình ông Đào Văn T2 tại thửa đất số 54, tờ bản đồ số 26, diện tích 486m2 đất ở tại thôn L, xã T.
(ii) UBND xã T đã tổ chức Hội nghị lấy ý kiến cộng đồng dân cư vào ngày 08/4/2021 xác định: Tại thời điểm ông Đào Văn T2 được cấp GCN QSD đất vợ chồng ông T2 (ông T2, bà Xuân); 02 con của ông T2 (trai, gái); bà H, vợ chồng anh H2, N3 (con trai, con dâu bà H); cụ C (là mẹ đẻ của ông T2, bà H). Trên đất ông T2 được cấp GCN QSD đất gia đình bà H được xây dựng ngôi nhà và khuôn viên vào khoảng năm 1988 - 1989 (từ trước khi cụ T3 mất vào khoảng năm 1994). Hàng năm vẫn nộp thuế quyền sử dụng đất.
(iii) Tại phiên tòa người khởi kiện và người đại diện theo ủy quyền trình bày, trước năm 1993 bà H được bố mẹ bà cho sử dụng một phần diện tích đất là 120m2 (trong tổng diện tích 486m2) thửa đất số 54 tờ bản đồ số 26 tại thôn L, xã T, huyện Đ, thành phố Hà Nội để xây dựng nhà, có khuôn viên riêng và sinh sống ổn định từ năm 1990 đến nay; hàng năm gia đình bà H vẫn nộp thuế đất. Năm 1999 ông T2 (em trai bà) đề nghị cấp giấy chứng nhận thửa đất trên nhưng không có chữ ký của bà khi làm hồ sơ cấp giấy và khi cấp đã cấp cả phần đất của gia đình bà H đang sử dụng.
(iv) Do đó, có thể xác định: Diện tích đất các đương sự đang tranh chấp là cụ T3, cụ C, điều này được các đương sự thừa nhận, hai cụ trước khi chết không để lại di chúc nào có hiệu lực cho ông T2 diện tích đất trên trong khi hai cụ có 05 người con thuộc hàng thừa kế thứ nhất cũng không có tên trong sổ hộ khẩu năm 1999 (tức là thời điểm cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông T2); ông T2 cũng không có tài liệu nào chứng minh những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ T3, thống nhất để ông T2 đứng tên thửa đất tranh chấp nêu trên. Hồ sơ cấp Giấy cũng không phản ánh đúng thực tế thửa đất vì trên diện tích đất 486m2 còn có nhà của bà H. Như vậy, việc cấp Giấy chứng nhận chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình ông Đào Văn T2 tại thửa đất số 54, tờ bản đồ số 26 thôn L, xã T, huyện Đ đã thực hiện không đúng quy trình, trình tự thủ tục. Điều này được thể hiện tại đơn đăng ký kê khai cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có ghi đại diện gia đình gồm có các thành viên ký tên gồm có ông T2, bà X, cụ Trần Thị C và cụ Đào Văn T3. Tuy nhiên tại thời điểm viết đơn cụ T3 đã chết (1994) và bà X (con dâu, vợ anh T2) không phải hàng thừa kế thứ nhất của hai cụ.
Như phân tích ở trên việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông T2 không đúng dẫn đến bà H có đơn khiếu nại (lần đầu) của Chủ tịch UBND huyện Đ. Ngày 22/10/2021, UBND huyện Đ ban hành Quyết định số 12639/QĐ-CTUB giải quyết khiếu nại của bà H giữ nguyên các nội dung tại Văn bản số 1845 ngày 22/6/2021 là cũng không có căn cứ. Do đó, kháng cáo của bà H hủy các quyết định là có căn cứ được chấp nhận và được cấp lại theo quy định của pháp luật thừa kế.
8. Bản án hành chính phúc thẩm số 790/2023/HC-PT ngày 31/10/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội về việc Khiếu kiện Quyết định hành chính về lĩnh vực quản lý đất đai
Nội dung sửa án:
Xét tính hợp pháp của Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BM 100657 do UBND huyện N cấp ngày 31/01/2012 cho ông Nguyễn Hữu Q, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy:
(i) Tại “Đơn xin thừa kế tài sản nhà và đất đai thổ cư” do cụ L1 lập ngày 30/4/2004, người làm đơn là cụ Mai Thị L1, 91 tuổi; Tại mục “Các anh chị đồng ý thừa kế” có chữ ký của các ông, bà: Nguyễn Thị V, Nguyễn Hữu H7, Nguyễn Hữu M, Nguyễn Thị H; không có chữ ký của những người thừa kế của bà L2.
(ii) Đối với chữ ký của ông Nguyễn Hữu M, bà Nguyễn Thị H, các bên xác nhận tại thời điểm làm đơn không có mặt và không ký; đối với bà Nguyễn Thị L2 đã chết trước thời điểm cụ L1 làm đơn xin thừa kế nên không có chữ ký, nhưng hiện nay các con của bà L2 đều đồng ý với việc ông Nguyễn Hữu Q được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không có ý kiến gì; đối với bà Nguyễn Thị V xác nhận chữ ký trong đơn đúng là chữ ký của bà, nhưng cho rằng do bị ông Q lừa dối và tin tưởng vào điểm chỉ của mẹ và các anh chị em nên mới ký; đối với chữ ký ông Nguyễn Hữu H7, hiện nay ông H7 đã chết, quá trình giải quyết bà Mai Thị K và các con gồm anh T, anh T1 ủy quyền cho bà H tham gia tố tụng không yêu cầu giám định chữ ký của ông H7.
(iii) Như vậy, tại thời điểm cụ Mai Thị L1 điểm chỉ vào “Đơn xin thừa kế” để chuyển giao tài sản nhà cửa đất đai cho ông Nguyễn Hữu Q thì cụ H6 đã chết không để lại di chúc, cụ L1 chỉ có quyền định đoạt đối với phần di sản của cụ L1. Ngoài ra, cụ H6 và cụ L1 có 06 người con, trong đó bà L2 đã chết trước cụ L1, còn lại 05 người con là bà V, ông H7, ông M, bà H, ông Q, nhưng có 02 người con là ông M, bà H không có mặt, không đồng ý với việc cụ L1 chuyển giao tài sản, nhà cửa đất đai của bố mẹ cho ông Q. Do đó, việc cụ L1 định đoạt toàn bộ tài sản trong đó có phần di sản của cụ H6 cho ông Q là vượt quá quyền định đoạt của cụ L1, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đồng thừa kế của cụ H6 và cụ L1. UBND huyện N căn cứ vào “Đơn xin thừa kế” của cụ L1 lập ngày 30/4/2004 để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BM 100657 ngày 31/01/2012 cho ông Nguyễn Hữu Q là không đúng quy định pháp luật. Do đó, cần phải hủy toàn bộ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BM 100657 ngày 31/01/2012 do UBND huyện N cấp cho ông Nguyễn Hữu Q. Tuy nhiên, đây là vụ án khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, do đó Hội đồng xét xử sẽ không xem xét đánh giá tính hợp pháp và tính có căn cứ đối với “Đơn thừa kế” ngày 30/4/2004 do cụ L1 lập.
Từ những phân tích nêu trên, xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị H và hủy một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số BM 100657 do UBND huyện N cấp ngày 31/01/2012 mang tên ông Nguyễn Hữu Q là chưa đúng, mà cần phải hủy toàn bộ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BM 100657 ngày 31/01/2012 để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Do đó, có căn cứ chấp nhận nội dung kháng cáo của bà Mai Thị K về việc đề nghị chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị H, hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BM 100657 do UBND huyện N, tỉnh Thanh Hóa cấp ngày 31/01/2012 cho ông Nguyễn Hữu Q như ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội tham gia phiên tòa.
9. Bản án hành chính phúc thẩm số 326/2023/HC-PT ngày 13/9/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng về việc Khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai
Nội dung sửa án:
Ông Võ Tiến Q1 và bà Nguyễn Thị Thanh H1 sử dụng đất có nhà ở là do thỏa thuận nhận chuyển nhượng nhà và đất của hộ ông Nguyễn Thanh H3 vào năm 1999 với diện tích 120m2 (theo hồ sơ đăng ký Nghị định số 64/CP thuộc một phần thửa đất số 181, tờ bản đồ số 14, diện tích 120m2, do ông Nguyễn Thanh H3 kê khai đăng ký trong Sổ Mục kê đã được Sở Địa chính Quảng Nam duyệt ngày 01/4/1998). Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CM 433734 ngày 13/7/2018 do Ủy ban nhân dân thành phố T cấp cho ông Võ Tiến Q1, bà Nguyễn Thị Thanh H1 đối với thửa đất số 518, tờ bản đồ số 13, diện tích 233,6m2 (120m2 đất ở và 113,6m2 đất trồng cây hàng năm) tại thôn H (nay là thôn H), xã T, thành phố T, tỉnh Quảng Nam; đối với phần diện tích tăng thêm so với diện tích nhận chuyển nhượng, tại phiên tòa bà H1 cho rằng ông Võ Tiến Q1 thỏa thuận nhận chuyển nhượng thêm đất vườn của hộ ông Nguyễn Thanh H3 113m2. Tuy nhiên tại phiên tòa ông Nguyễn Thanh H3 khẳng định năm 1989 ông chỉ chuyển nhượng cho ông Võ Tiễn Q2 120m2 loại đất ở, không có đất khác; diện tích 113,6m2 đất mà UBND thành phố T cấp cho Q2 là đất con đương duy nhất đi vào nhà ông B1, ông Bửu b lại cho ông Huỳnh Minh  là con đường đi duy nhất vào nhà ông  có từ trước không phải là đất trồng cây lâu năm, ông  có làm hố ga và xây chuồng gà trên đó, phù hợp với lời khai ông T3, ông H6 và các nhân chứng tại khu dân cư. Theo hồ sơ địa chính được lập có xác nhận của Sở TN-MT tỉnh Q ngày 29/6/2017 thể hiện diện tích 113,6m2 là phần đất nằm trong thửa 540 của gia đình ông  nằm trong diện tích đất 528,6m2 ông  kê khai đăng ký. Do đó, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CM 433734 ngày 13/7/2018 do Ủy ban nhân dân thành phố T cấp cho ông Võ Tiến Q1, bà Nguyễn Thị Thanh H1 đối với thửa đất số 518, tờ bản đồ số 13, diện tích 233,6m2 tại thôn H (nay là thôn H), xã T, thành phố T, tỉnh Quảng Nam là không đúng Theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 106 Luật đất đai nên ông Huỳnh Minh  khởi kiện yêu cầu hủy Giấy chứng nhận QSDĐ QSH nhà ở trên là có căn cứ.
Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy có căn cứ chấp nhận đơn kháng cáo của ông Huỳnh Minh Â, sửa Bản án hành chính sơ thẩm số 55/2023/HC-ST ngày 13 tháng 6 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh Minh  hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CM 433734 ngày 13/7/2018 do Ủy ban nhân dân thành phố T cấp cho ông Võ Tiến Q1, bà Nguyễn Thị Thanh H1.
10. Bản án hành chính phúc thẩm số 274/2023/HC-PT ngày 22/8/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng về việc Khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai
Nội dung sửa án:
(i) Ngoài ra, Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Trần Thị Mai L1 với bà Trần Thị H5 được ký kết ngày 30-8-2003; trong khi đó, bà Trần Thị Mai L1 ký hợp đồng chuyển nhượng cho bà Phan Thị N ngày 27-7-2001, nhưng tứ cận thể hiện tại Hợp đồng chuyển nhượng số 67/CN ngày 27-7-2001, giữa bà Trần Thị Mai L1 với bà Phan Thị N lại ghi là phía Nam giáp đất bà Trần Thị H5 là không đúng, vì lúc đó bà H5 chưa nhận chuyển nhượng đất (nhận chuyển nhượng sau 02 năm).
(ii) Về lời khai xác nhận của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Bà Phạm Thị H4 xác nhận: Giấy CNQSDĐ cấp cho bà không đúng với vị trí như hợp đồng chuyển nhượng giữa bà với bà Trần Thị Mai L1. Ngày 12-01-2004, bà có ký tứ cận cho ông Lê Hồng H giáp đất của bà là lô thứ 2 (tức là số thửa 5-1) từ Quốc lộ B (tức là đường D) vào trong. Bà H4 khẳng định chưa bao giờ ký giáp ranh cho bà Phan Thị N và không biết bà N là ai.
(iii) Tại Văn bản số 2113/CV-UBND ngày 31-5-2022 của UBND thành phố K thể hiện: Đối với vị trí đất ông Lê Hồng H sử dụng, căn cứ hồ sơ chuyển nhượng giữa bà Trần Thị Mai L1 với bà Phan Thị N và giấy tờ sang nhượng giữa bà L1 với ông Lê Hồng H (lưu giữ tại Chi nhánh Văn phòng Đ) thì ông H và bà N đều được bà L1 chuyển nhượng cùng vị trí đất. Nguyên nhân phát sinh tranh chấp xuất phát từ việc bà L1 chỉ có 46 m (chia thành 9 lô), nhưng đã chuyển nhượng 51 m (10 lô). Khi lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất xác định tứ cận, vị trí thửa đất không đúng so với thực địa; Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất, UBND phường T không căn cứ vào kết quả đo đạc thực tế để tách thửa, mà chỉ căn cứ vào tứ cận, vị trí theo hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất để tham mưu cho UBND thị xã (nay là thành phố) Kon Tum cấp Giấy CNQSDĐ cho ông Lương Thế K, bà Nguyễn Thị Kim L chồng lên đất của gia đình ông Lê Hồng H đang ở.
(iv) Tại phiên tòa hành chính sơ thẩm ngày 29-9-2022, người bị kiện là UBND thành phố K xác nhận: Theo hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Trần Thị Mai L1 với bà Phan Thị N là thửa số 5-1, nhưng khi cấp Giấy CNQSDĐ cho bà Phan Thị N ghi là thửa số 5-7 là không đúng, do đó Giấy CNQSDĐ cấp cho ông Lương Thế K, bà Nguyễn Thị Kim L cũng không đúng. Vì vậy, ông Lê Hồng H khởi kiện yêu cầu huỷ Giấy CNQSDĐ do UBND thị xã (nay là thành phố) Kon Tum đã cấp cho ông Lương Thế K, bà Nguyễn Thị Kim L là có cơ sở.
(v) Tại Văn bản số 1675/CV-VPĐKĐĐ ngày 18-10-2022, Chi nhánh Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất thành phố K xác định: Phía Nam thửa đất của bà Phạm Thị H4 giáp đất bà Phạm Thị H7, phía Bắc giáp đất bà Trần Thị Mai L1 (lúc này bà L1 chưa chuyển nhượng cho ông H). Theo Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Trần Thị Mai L1 với bà Phạm Thị H4 ngày 20-8-2003, thể hiện thửa đất 5-0, tờ bản đồ số 6, tính từ đường D vào (tức là lô số 1), nhưng khi lập Hồ sơ trích lục ngày 19-02-2003, thì đất của bà H4 thể hiện là thửa đất 5-3 (tức là lô số 4 tính từ đường D vào); nguyên nhân là do khi lập hồ sơ cấp Giấy CNQSDĐ cho bà H4 không đúng với vị trí trong hợp đồng chuyển nhượng và Biên bản xác minh tứ cận ngày 20- 8-2003, có xác nhận của UBND phường T.
(vi) Tại phiên tòa sơ thẩm ngày 10-02-2023, đại diện Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất tỉnh Kon Tum trình bày: UBND thành phố K cấp Giấy CNQSDĐ cho bà Phan Thị N và bà Phạm Thị H4 không đúng vị trí lô đất theo biên bản xác minh tứ cận đã được UBND phường xác nhận và sự thỏa thuận của các đương sự trong hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Trần Thị Mai L1 với bà Phan Thị N; giữa bà Trần Thị Mai L1 với bà Phạm Thị H4, do đó ông Lê Hồng H khởi kiện yêu cầu hủy Giấy CNQSDĐ đã cấp cho bà Phan Thị N, sau đó cấp cho ông Lương Thế K và bà Nguyễn Thị Kim L là có cơ sở.
(vii) Mặc dù, thửa đất của ông Lê Hồng H chưa được cấp Giấy CNQSDĐ, nhưng với các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án; nội dung trình bày của người khởi kiện, người bị kiện và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, Hội đồng xét xử phúc thẩm có đủ cơ sở để xác định lô đất của ông Lê Hồng H nhận chuyển nhượng của bà Trần Thị Mai L1 là lô đất thứ 2 từ đường D vào, phía Nam giáp đất bà Phạm Thị H4 (tức là giáp lô đất thứ nhất từ đường D vào), nhưng UBND thị xã (nay là thành phố) Kon Tum đã cấp Giấy CNQSDĐ cho bà Phan Thị N, sau đó bà N chuyển nhượng lại cho vợ chồng ông Lương Thế K là cấp vào diện tích đất của gia đình ông Lê Hồng H đã nhận chuyển nhượng và đang ở ổn định. Tuy nhiên, Toà án cấp sơ thẩm cho rằng “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký tại Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất; Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Trần Thị Mai L1 với ông Lê Hồng H chưa làm thủ tục đăng ký tại Văn phòng Đăng ký đất đai, nên chưa có hiệu lực. Cho đến thời điểm hiện tại, hợp đồng chuyển nhượng đối với lô đất nêu trên vẫn chưa có hiệu lực, chưa được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy CNQSDĐ, nên ông Lê Hồng H cũng không có quyền sử dụng đối với lô đất này, nhưng vào năm 2011, ông H đã xây dựng nhà ở là vi phạm pháp luật. Trong khi đó, bà Phan Thị N và vợ chồng ông Lương Thế K, bà Nguyễn Thị Kim L đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy CNQSDĐ…” là chưa đánh giá chứng cứ một cách khách quan, toàn diện; không đúng quy định tại khoản 1 Điều 108 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
(viii) Ngoài ra, Toà án cấp sơ thẩm căn cứ vào Giấy CNQSDĐ số phát hành Đ 507433, số vào sổ cấp GCN 00003, do UBND thị xã K cấp ngày 07-4-2004 cấp cho bà Phạm Thị H4 (Giấy chứng nhận này, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất đã xác nhận là cấp sai vị trí thửa đất) để làm căn cứ xác định vị trí lô đất của ông Phạm Hồng H8 giáp đất bà Phạm Thị H4 về phía Bắc là không có cơ sở, vì theo Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 20-8-2003, giữa bà Trần Thị Mai L1 với bà Phạm Thị H4, thì thửa đất của bà H4 là thửa 5-0 (tức là lô đất số 1) tính từ đường D vào, nhưng UBND thành phố K đã cấp Giấy CNQSDĐ sai vị trí cho bà H4 là thửa 5- 3 (tức là là lô thứ 4); nội dung này đã được Chi nhánh Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất thành phố K trả lời tại Văn bản số 1675/CV-VPĐKĐĐ ngày 18-10-2022. Bà Trần Thị Mai L1 chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà Phan Thị N ngày 27- 7-2001, nhưng đến ngày 23-7-2023, bà L1 mới được UBND thị xã K cấp Giấy CNQSDĐ và ngày 12-01-2004, bà L1 chuyển nhượng đất cho ông Lê Hồng H (ông H nhận chuyển nhượng đất từ bà L1 sau bà N), nhưng Toà án cấp sơ thẩm lại nhận định: “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Trần Thị Mai L1 với bà Phan Thị N là hợp pháp, bởi khi chuyển nhượng và tại thời điểm bà N làm Giấy CNQSDĐ thì bà L1 đã có Giấy CNQSDĐ do UBND thị xã K cấp đứng tên bà L1” là không có căn cứ.