1. Giải thích từ ngữ
Xâm phạm quyền hội họp, lập hội của công dân được hiểu là hành vi cản trở, ngăn cản hoặc hạn chế quyền của công dân trong việc tổ chức hoặc tham gia các cuộc hội họp, thành lập hoặc gia nhập các tổ chức, hội, đoàn thể một cách hợp pháp.
2. Tội danh
“Điều 163. Tội xâm phạm quyền hội họp, lập hội của công dân
1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác ngăn cản hoặc ép buộc người khác lập hội, hội họp hợp pháp, đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì phạt tù từ 01 năm đến 03 năm:
a) Có tổ chức;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
c) Phạm tội 02 lần trở lên;
d) Dẫn đến biểu tình;
đ) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
3. Cấu thành tội phạm
3.1. Khách thể của tội phạm
Tội phạm này xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân đã được ghi nhận Điều 25 Hiến pháp 2013 về quyền tự do hội họp, quyền tự do lập hội.
3.2. Mặt khách quan của tội phạm
Mặt khách quan của tội phạm này được thể hiện qua các hành vi cụ thể nhằm ngăn cản hoặc ép buộc người khác trong việc thực hiện quyền hội họp hoặc lập hội một cách hợp pháp. Các hành vi này có thể bao gồm:
- Dùng vũ lực;
- Đe dọa dùng vũ lực; hoặc
- Dùng bất kỳ thủ đoạn nào khác.
Điều đáng chú ý là những hành vi này, bất kể hình thức hay phương pháp nào, đều nhằm mục đích ngăn cản hoặc ép buộc người khác thực hiện quyền hội họp hoặc lập hội mà pháp luật cho phép.
Điều này có thể xảy ra ngay cả khi trước đó, người thực hiện hành vi đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi tương tự.
Dấu hiệu về việc trước đó đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính được coi là một yếu tố bắt buộc để xác định tội danh và là dấu hiệu quan trọng giúp phân biệt hành vi này là tội phạm hay chỉ là một vi phạm pháp luật hành chính khác.
Mặc dù hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi không phải là yếu tố bắt buộc để định tội nhưng nó có vai trò quan trọng trong quá trình Tòa án xem xét khi quyết định mức hình phạt. Đồng thời, trong một số trường hợp, hậu quả này có thể được coi là tình tiết tăng nặng để áp dụng khung hình phạt nặng hơn theo quy định tại Khoản 2 Điều 163 của Bộ luật Hình sự.
3.3. Mặt chủ quan của tội phạm
Tội xâm phạm quyền hội họp, lập hội giáo của công dân được thực hiện do lỗi cố ý, có thể là lỗi cố ý gián tiếp hoặc cố ý trực tiếp. Tức là người phạm tội nhận thức rõ hành vi xâm phạm quyền hội họp, lập hội của công dân là trái pháp luật, thấy trước được hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xẩy ra hoặc nhận thức rõ hành vi của mình là trái pháp luật, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xẩy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.
Người phạm tội xâm phạm quyền hội họp, lập hội của công dân có nhiều động cơ khác nhau; động cơ không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này, nên việc xác định động cơ phạm tội của người phạm tội chỉ có ý nghĩa trong việc quyết định hình phạt.
Mục đích của người phạm tội là mong muốn quyền hội họp, lập hội của công dân bị xâm phạm.
3.4. Chủ thể của tội phạm
Người phạm tội này có thể là bất kỳ ai, từ đủ 16 tuổi trở lên và có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự (năng lực nhận thức và năng lực làm chủ hành vi) theo quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự.
Thực tế cho thấy, người phạm tội thường là người có trách nhiệm hoặc có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn để ngăn cản hoặc ép buộc người khác lập hội, hội họp hợp pháp.
Trân trọng./.