TỘI XÂM PHẠM BÍ MẬT HOẶC AN TOÀN THƯ TÍN, ĐIỆN THOẠI, ĐIỆN TÍN HOẶC HÌNH THỨC TRAO ĐỔI THÔNG TIN RIÊNG TƯ KHÁC CỦA NGƯỜI KHÁC

(Theo Điều 159 Bộ luật Hình sự năm 2015)

1. Giải thích từ ngữ

Xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín hoặc hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác được hiểu là hành vi cố ý can thiệp, xâm nhập vào quyền riêng tư trong việc trao đổi thông tin cá nhân của người khác mà không có sự đồng ý của họ hoặc không có lý do pháp lý chính đáng.

2. Tội danh

“Điều 159. Tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín hoặc hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác

1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm:

a) Chiếm đoạt thư tín, điện báo, telex, fax hoặc văn bản khác của người khác được truyền đưa bằng mạng bưu chính, viễn thông dưới bất kỳ hình thức nào;

b) Cố ý làm hư hỏng, thất lạc hoặc cố ý lấy các thông tin, nội dung của thư tín, điện báo, telex, fax hoặc văn bản khác của người khác được truyền đưa bằng mạng bưu chính, viễn thông;

c) Nghe, ghi âm cuộc đàm thoại trái pháp luật;

d) Khám xét, thu giữ thư tín, điện tín trái pháp luật;

đ) Hành vi khác xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín, telex, fax hoặc hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm:

a) Có tổ chức;

b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

c) Phạm tội 02 lần trở lên;

d) Tiết lộ các thông tin đã chiếm đoạt, làm ảnh hưởng đến danh dự, uy tín, nhân phẩm của người khác;

đ) Làm nạn nhân tự sát.

3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”

3. Cấu thành tội phạm

3.1. Khách thể của tội phạm

Tội phạm này xâm phạm đến quyền được bảo đảm an toàn và bí mật về thư tín, điện thoại, điện tín hoặc các hình thức trao đổi riêng tư khác của công dân.

3.2. Mặt khách quan của tội phạm

Mặt khách quan của Tội phạm này được thể hiện qua các hành vi như:

- Hành vi chiếm đoạt thư tín, điện báo, telex, fax hoặc văn bản khác của người khác được truyền đưa bằng mạng bưu chính, viễn thông dưới bất kỳ hình thức nào. 

Đây là hành vi làm cho thư, điện báo, telex, fax, các văn bản trên không đến với người nhận bằng nhiều thủ đoạn như: dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực, lén lút, gian dối, bội tín, công nhiên,… Người phạm tội có thể lấy các thông tin này cho mình hoặc người khác, nhưng cũng có thể chỉ lấy rồi vứt đi, mà không chiếm hữu sử dụng.

- Hành vi cố ý làm hư hỏng, thất lạc hoặc cố ý lấy các thông tin, nội dung của thư tín, điện báo, telex, fax hoặc văn bản khác của người khác được truyền đưa bằng mạng bưu chính, viễn thông. 

Đó có thể là hành vi tiêu huỷ thư, điện báo, telex, fax hoặc các văn bản khác được truyền đưa bằng phương tiện viễn thông và máy tính của người khác; bóc và đọc trộm thư của người khác; hành vi làm cho thư tín, điện báo, fax hoặc các văn bản khác không được gửi đến đúng địa chỉ của người nhận hoặc làm người nhận không nhận được…

- Nghe, ghi âm cuộc đàm thoại trái pháp luật.

Là hành vi lén lút ghi lại nội dung cuộc nói chuyện giữa nhiều người với nhau mà không được sự đồng ý, cho phép của người bị ghi âm. Việc nghe hoặc ghi âm điện thoại liên quan đến quyền riêng tư của cá nhân về thông tin. 

Tuy nhiên, một số trường hợp đặc biệt vẫn có thể ghi âm mà không vi phạm phạm luật, chẳng hạn: ghi âm cuộc đàm thoại của hai người đang âm mưu buôn bán ma túy để làm chứng cứ.

- Khám xét, thu giữ thư tín, điện tín trái pháp luật

Điều này thể hiện bằng hành vi tự ý lục lọi, khám xét và giữ thư tín, điện tín trong các trường hợp không được pháp luật cho phép, không đúng trình tự quy định của pháp luật. 

Ví dụ: Việc khám xét nội dung tin nhắn điện thoại cá nhân không đúng thẩm quyền, không có lý do chính đáng.

- Hành vi khác xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín, telex, fax hoặc hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác

Bao gồm các hành vi khác mà nhà làm luật chưa mô tả trong cấu thành tội phạm kể trên. Ví dụ: Hành vi đọc trộm tin nhắn của người khác.

- Trường hợp người phạm tội đã bị xử lý kỷ luật/ xử phạt hành chính trước đó nhưng vẫn tiếp tục vi phạm:

+ Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này theo quy định của Nhà nước hoặc điều lệ của tổ chức và chưa hết thời hạn được xóa kỷ luật mà nay lại có hành vi xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác.

+ Đã bị xử phạt hành chính về một trong những hành vi quy định tại Khoản 1 Điều 159 Bộ luật Hình sự do chưa đến mức bị truy cứu hình sự nhưng lại tiếp tục tái phạm. 

Lưu ý: 

- Nếu người phạm tội chỉ thực hiện một trong các hành vi nêu trên thì định tội theo hành vi đó. Ví dụ: Người phạm tội có hành vi xâm phạm bí mật thư tín, thì định tội “xâm phạm bí mật thư tín của người khác”. 

- Nếu người phạm tội thực hiện nhiều hành vi thì khi định tội nêu tất cả các hành vi phạm tội nhưng không dùng liên từ hoặc. Ví dụ: người phạm tội xâm phạm bí mật thư tín, bí mật điện thoại và an toàn thư tín, thì định tội là: “Xâm phạm bí mật thư tín, bí mật điện thoại và an toàn thư tín của người khác”.

3.3. Mặt chủ quan của tội phạm

Tội phạm được thực hiện do lỗi cố ý, có thể là lỗi cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp. Người phạm tội hoàn toàn nhận thức được hậu quả bí mật an toàn thư tín, điện thoại, điện tín hoặc hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác bị xâm hại nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi xâm phạm hoặc không mong muốn hậu quả xảy ra nhưng lại có ý thức bỏ mặc để hậu quả đó xảy ra.

Động cơ của tội phạm này rất đa dạng, có thể vì để xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người bị xâm hại như bí mật kinh doanh,... nhưng cũng có thể vì lý do cá nhân như tò mò, ghen tuông,...

3.4. Chủ thể của tội phạm

Theo quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự thì người phạm tội này có thể là bất cứ ai (công dân Việt Nam, người nước ngoài hoặc người không quốc tịch). Một số trường hợp người phạm tội là người có chức vụ, quyền hạn nhất định; từ đủ 16 tuổi trở lên và có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự (năng lực nhận thức và năng lực làm chủ hành vi). 

Trân trọng./.

Góp ý