1. Giải thích từ ngữ
Vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng được hiểu là hành vi của cá nhân hoặc tổ chức không tuân thủ các quy định pháp luật trong quá trình thực hiện các hoạt động ngân hàng hoặc các hoạt động liên quan đến ngân hàng.
2. Tội danh
“Điều 206. Tội vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng
1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây gây thiệt hại cho người khác về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Cấp tín dụng cho trường hợp không được cấp tín dụng, trừ trường hợp cấp dưới hình thức phát hành thẻ tín dụng;
b) Cấp tín dụng không có bảo đảm hoặc cấp tín dụng với điều kiện ưu đãi cho đối tượng bị hạn chế cấp tín dụng theo quy định của pháp luật;
c) Vi phạm quy định về tỷ lệ bảo đảm an toàn cho hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài theo quy định của Luật Các tổ chức tín dụng;
d) Cố ý nâng khống giá trị tài sản bảo đảm khi thẩm định giá để cấp tín dụng đối với trường hợp phải có tài sản bảo đảm;
đ) Vi phạm quy định của pháp luật về tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với đối tượng bị hạn chế cấp tín dụng;
e) Cấp tín dụng vượt giới hạn so với vốn tự có đối với một khách hàng và người có liên quan, trừ trường hợp có chấp thuận của người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật;
g) Vi phạm quy định của pháp luật về góp vốn, giới hạn góp vốn, mua cổ phần, điều kiện cấp tín dụng;
h) Phát hành, cung ứng, sử dụng phương tiện thanh toán không hợp pháp; làm giả chứng từ thanh toán, phương tiện thanh toán; sử dụng chứng từ thanh toán, phương tiện thanh toán giả;
i) Kinh doanh vàng trái phép hoặc kinh doanh ngoại hối trái phép;
k) Tiến hành hoạt động ngân hàng khi chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép theo quy định của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật Các tổ chức tín dụng.
2. Phạm tội gây thiệt hại về tài sản từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm.
3. Phạm tội gây thiệt hại về tài sản từ 1.000.000.000 đồng đến dưới 3.000.000.000 đồng, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm.
4. Phạm tội gây thiệt hại về tài sản 3.000.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm.
5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
3. Cấu thành tội phạm
3.1. Khách thể của tội phạm
Khách thể bị xâm phạm của tội phạm này là trật tự quản lý kinh tế mà cụ thể là các quy định của Nhà nước về cấp tín dụng; về góp vốn; về mua cổ phần; về phát hành, cung ứng, sử dụng phương tiện thanh toán; về kinh doanh vàng hoặc kinh doanh ngoại hối và các hoạt động ngân hàng.
3.2. Mặt khách quan của tội phạm
Thể hiện bằng hành vi các gây thiệt hại cho người khác về tài sản như:
- Cấp tín dụng cho trường hợp không được cấp tín dụng, trừ trường hợp cấp dưới hình thức phát hành thẻ tín dụng;
- Cấp tín dụng không có bảo đảm hoặc cấp tín dụng với điều kiện ưu đãi cho đối tượng bị hạn chế cấp tín dụng theo quy định của pháp luật;
- Vi phạm quy định về tỷ lệ bảo đảm an toàn cho hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài theo quy định của Luật Các tổ chức tín dụng;
- Cố ý nâng khống giá trị tài sản bảo đảm khi thẩm định giá để cấp tín dụng đối với trường hợp phải có tài sản bảo đảm;
- Vi phạm quy định của pháp luật về tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với đối tượng bị hạn chế cấp tín dụng;
- Cấp tín dụng vượt giới hạn so với vốn tự có đối với một khách hàng và người có liên quan, trừ trường hợp có chấp thuận của người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật;
- Vi phạm quy định của pháp luật về góp vốn, giới hạn góp vốn, mua cổ phần, điều kiện cấp tín dụng;
- Phát hành, cung ứng, sử dụng phương tiện thanh toán không hợp pháp; làm giả chứng từ thanh toán, phương tiện thanh toán; sử dụng chứng từ thanh toán, phương tiện thanh toán giả;
- Kinh doanh vàng trái phép hoặc kinh doanh ngoại hối trái phép;
- Tiến hành hoạt động ngân hàng khi chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép theo quy định của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật Các tổ chức tín dụng.
Các hành vi nêu trên chỉ cấu thành tội phạm nếu gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng.
Tội phạm này được coi là hoàn thành khi người phạm tội thực hiện một trong các hành vi nêu trên.
- Hậu quả tội phạm: Hậu quả không phải dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này.
+ Hậu quả của hành vi vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này. Nếu hành vi chưa gây thiệt hại cho người khác về tài sản từ 100.000.000 đồng trở lên, thì chưa cấu thành tội phạm theo Điều 206 Bộ luật Hình sự, mà người có hành vi có thể chỉ bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên, Điều 206 Bộ luật Hình sự năm 2015 không quy định trường hợp nếu gây thiệt hại cho người khác về tài sản dưới 100.000.000 đồng, mà người phạm tội đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính thì cũng cấu thành tội phạm như một số tội phạm khác.
+ Việc xác định thiệt hại cho người khác về tài sản từ 100.000.000 đồng trở lên cũng tương tự như việc xác định thiệt hại đối với hành vi phạm tội khác, phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng với thiệt hại cho người khác về tài sản. Nếu thiệt hại về tài sản lại do nguyên nhân khác thì không phải là hậu quả của của hành vi vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng.
3.3. Mặt chủ quan của tội phạm
Tội phạm này được thực hiện do lỗi cố ý. Bằng nghiệp vụ của mình, người phạm tội cố ý thực hiện các hành vi như: cấp tín dụng cho những trường hợp không được cấp tín dụng, cấp tín dụng cho các đối tượng bị hạn chế cấp tín dựng, cố ý nâng khống giá trị tài sản bảo đảm khi thẩm định giá để cấp tín dụng, tiến hành hoạt động ngân hàng khi chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép,...
3.4. Chủ thể của tội phạm
Đây là tội phạm có dấu hiệu chủ thể đặc biệt, người phạm tội chỉ có thể là người có có chức vụ, quyền hạn trong các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Ngoài ra, chủ thể của tội phạm này có thể là bất kỳ người nào từ đủ 16 tuổi trở lên theo Điều 12 Bộ luật Hình sự và có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự theo Điều 21 Bộ luật Hình sự.
Trân trọng./.