TỘI RA BẢN ÁN TRÁI PHÁP LUẬT

(Theo Điều 370 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017)

1. Giải thích từ ngữ

Ra bản án trái pháp luật được hiểu là hành viban hành một bản án mà nội dung của nó không tuân thủ các quy định pháp luật hiện hành, bao gồm cả việc áp dụng sai tội danh, mức án hoặc vi phạm quy trình, thủ tục tố tụng.

2. Tội danh

Điều 370. Tội ra bản án trái pháp luật

1. Thẩm phán, Hội thẩm nào ra bản án mà mình biết rõ là trái pháp luật, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:

a) Phạm tội 02 lần trở lên;

b) Đối với người dưới 18 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu;

c) Kết án oan người vô tội về tội phạm nghiêm trọng hoặc tội phạm rất nghiêm trọng;

d) Bỏ lọt tội phạm nghiêm trọng hoặc tội phạm rất nghiêm trọng; người phạm tội nghiêm trọng hoặc phạm tội rất nghiêm trọng;

đ) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của bị cáo, người bị hại, đương sự mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;

e) Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng;

g) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm:

a) Kết án oan người vô tội về tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;

b) Bỏ lọt tội phạm đặc biệt nghiêm trọng hoặc người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng;

c) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của bị cáo, người bị hại, đương sự mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;

d) Dẫn đến bị cáo, người bị hại, đương sự tự sát;

đ) Gây thiệt hại về tài sản 1.000.000.000 đồng trở lên.

4. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

3. Cấu thành tội phạm

3.1. Khách thể của tội phạm

Khách thể của tội phạm này là hoạt động đúng đắn của cơ quan tư pháp và quyền, lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức. Tội phạm này xâm phạm đến tính nghiêm minh của pháp luật, ảnh hưởng đến nguyên tắc công bằng, bình đẳng trước pháp luật, và gây tổn hại đến niềm tin của người dân vào hệ thống tư pháp.

3.2. Mặt khách quan của tội phạm

Hành vi khách quan của tội phạm này là hành vi ra bản án trái pháp luật. Cụ thể:

  • Ra bản án xử lý một người không phạm tội: Tuyên án kết tội hoặc kết án người không có hành vi phạm tội.
  • Ra bản án không đúng với tội danh, hình phạt: Áp dụng sai tội danh hoặc mức án, dẫn đến bản án không đúng với tính chất và mức độ của hành vi phạm tội.
  • Ra bản án sai quy định của pháp luật: Không tuân thủ đúng quy trình, thủ tục tố tụng hoặc áp dụng sai luật.

Hậu quả của hành vi này có thể bao gồm:

  • Xâm phạm quyền lợi hợp pháp của cá nhân: Người bị kết án oan sai sẽ phải chịu các hình phạt, mất tự do hoặc tài sản, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống cá nhân, danh dự, và uy tín.
  • Mất lòng tin vào hệ thống tư pháp: Hành vi ra bản án trái pháp luật làm giảm niềm tin của công chúng vào tính công bằng và nghiêm minh của pháp luật.
  • Gây ra sự bất ổn xã hội: Bản án trái pháp luật có thể gây ra sự bất mãn trong xã hội, tạo tiền lệ xấu và có thể dẫn đến sự không tuân thủ pháp luật.

Mối quan hệ nhân quả là yếu tố bắt buộc để xác định trách nhiệm hình sự. Hành vi ra bản án trái pháp luật của thẩm phán hoặc hội đồng xét xử đã trực tiếp dẫn đến hậu quả là người bị kết án oan sai hoặc tội phạm không bị xử lý đúng pháp luật, gây ra các hậu quả nghiêm trọng cho xã hội.

3.3. Mặt chủ quan của tội phạm

Người phạm tội có thể thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp hoặc gián tiếp. Họ nhận thức được hành vi ra bản án của mình là trái pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện. Cũng có thể họ không thực hiện đầy đủ trách nhiệm của mình, dẫn đến việc ra bản án trái pháp luật với lỗi vô ý.

Động cơ của hành vi có thể bao gồm: tư thù cá nhân, nhận hối lộ, bị ép buộc bởi cấp trên hoặc vì mong muốn đạt được một lợi ích cá nhân nào đó.

Mục đích của hành vi ra bản án trái pháp luật có thể là để bảo vệ cá nhân có tội, trục lợi cá nhân hoặc làm tổn hại đến người khác vì lý do tư thù cá nhân hoặc vì lợi ích của một nhóm nhất định.

3.4. Chủ thể của tội phạm

Chủ thể của tội phạm này là thẩm phán hoặc thành viên hội đồng xét xử - những người có thẩm quyền ra bản án trong quá trình xét xử. Họ phải có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 16 tuổi trở lên.

Trân trọng./.

Góp ý