Nội dung hủy án:
Tòa sơ thẩm nhận định “Tại thời điểm thỏa thuận đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất, bà Lê Thị Ngọc D và ông Đoàn Văn T biết rõ đất cấp cho hộ gia đình nhưng vẫn thỏa thuận đặt cọc chuyển nhượng dù chưa được sự đồng ý của các thành viên trong hộ, nên các bên đều có lỗi ngang nhau làm cho hợp đồng chuyển nhượng không thể giao kết và thực hiện được”. Tòa sơ thẩm xác định cả hai bên đều có lỗi làm cho hợp đồng vô hiệu là đúng, tuy nhiên việc Tòa sơ thẩm chỉ buộc bà D trả lại cho ông T 100.000.000 đồng mà không xác định mức độ lỗi để phạt cọc là trái với điểm a phần 1 Nghị quyết 01/2003/NQ-HĐTP ngày 16/4/2003 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao “Trong trường hợp đặt cọc chỉ để bảo đảm cho việc giao kết hợp đồng hoặc chỉ để bảo đảm cho việc thực hiện hợp đồng hoặc vừa để bảo đảm cho việc giao kết hợp đồng vừa để đảm bảo cho việc thực hiện hợp đồng thì bên nào có lỗi làm cho hợp đồng không được giao kết hoặc không thực hiện hoặc bị vô hiệu thì phải chịu phạt cọc theo quy định tại khoản 2 Điều 363 Bộ luật dân sự”. Về phần phạt cọc Điều 363 Bộ luật dân sự năm 1995; Điều 358 Bộ luật dân sự năm 2005 và Điều 328 Bộ luật dân sự năm 2015 có quy định nội dung gần như nhau. Do đó cần phải hủy án sơ thẩm để xét xử lại, việc tính phạt cọc bao nhiêu là căn cứ trên yếu tố lỗi của các bên làm cho hợp đồng không thực hiện được.