Nội dung hủy án:
(i) Ngày 15/6/2020 Tòa án sơ thẩm ban hành thông báo thụ lý vụ án số 91/TB-TLVA( But lục B1) để gửi cho các đương sự tham gia tố tụng với tư cách nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Tại thông báo thụ lý vụ án này thì có thông báo cho bà Nguyễn Thị Xuân L1, sinh năm 1966; Địa chỉ Ấp A xã , ,huyện C tỉnh Tiền Giang. Tài liệu trong hồ sơ vụ án không thể hiện được bà Nguyễn Thị Xuân L1 này là ai, đồng thời thông báo thụ lý vụ án lại nêu “Theo đơn khởi kiện của bà Trần Thị Ngọc H7..” là cũng không đúng họ của bà H7 là vi phạm Điều 196,199 của Bộ luật tố tụng dân sự.
(ii) Ngày 22/11/2020 Tòa sơ thẩm có ra thông báo số 113/2020/TB-TA về việc Tòa án xác định Ngân hàng thương mại cổ phần Á – Chi nhánh T1 – Phòng G2 là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án. Trường hợp này cần xác định Ngân hàng thương mại cổ phần Á là người có liên quan, quá trình giải quyết sẽ có ủy quyền của hệ thống ngân hàng thì sẽ xác định đại diện theo ủy quyền. Đến khi Tòa án đưa vụ án ra xét xử và bản án sơ thẩm thì không thể hiện ngân hàng có tham gia tố tụng trong vụ án. Như vậy, tòa sơ thẩm đã tùy tiện đưa Ngân hàng ra khỏi vụ án là không đúng qui định.
(iii) Ngày 14/12/2020 Tòa sơ thẩm có ban hành thông báo thụ lý yêu cầu độc lập số 91a/TB-TLVA về việc thụ lý yêu cầu độc lập của bà Nguyễn Kiều H2. Thông báo thụ lý này không thể hiện việc tống đạt cho các đương sự, chỉ tống đạt duy nhất cho Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh T (bút lục 141a). Ngày 11/12/2020 lại ban hành thông báo phiên họp kiểm tra giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải và ấn định ngày hòa giải vào ngày 22/12/2020. Như vậy Tòa án ra thông báo hòa giải trước khi thụ lý yêu cầu độc lập 03 ngày và ấn định ngày hòa giải 11 ngày là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Sau đó tòa án tiếp tục ra thông báo phiên họp kiểm tra giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải và ấn định ngày hòa giải tiếp theo, ngày ra thông báo là ngày 15/6/2021 (bút lục 207) nhưng ngày ấn định hòa giải là ngày 23/3/2022 (sau 09 tháng).
(iv) Tại biên bản hòa giải ngày 22/12/2020 ( bút lục 163), ngoài các đương sự là nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án thì có thêm người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là cụ Nguyễn Văn O1, ông Nguyễn Thành M3. Ngày 27/5/2022 Tòa án sơ thẩm ban hành quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án; Ngày 13/6/2022 Chánh án Thị xã G ban hành Quyết định phân công lại thẩm phán tiến hành tố tụng vụ án. Thẩm phán mới được phân công tiếp tục có thông báo thụ lý vụ án bổ sung cho Ngân hàng thương mại cổ phần Á – Chi nhánh T1. Ngày 06/12/2023 Tòa án có quyết định số 46/2023/QĐTA tiếp tục giải quyết vụ án, ngày 22/12/2023 thì ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử, ngày xét xử là 10/01/2024. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử ( bút lục 338) thì không còn tên ông Nguyễn Văn O1 (trường hợp nếu ông O1 chết trong quá trình tố tụng thì cũng phải đưa người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông O1 vào tham gia tố tụng), không còn tên ông Nguyễn Thành M3, bà Nguyễn Thị Xuân L1, Ngân hàng Thương Mại Cổ phần Á – Chi nhánh T1. Bà Nguyễn Thị Phương T là bị đơn trong vụ án thì xác định bà Nguyễn Thị Phương T - bị đơn và bà T cũng là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, trong khi đó bà T chỉ tham gia với tư cách là bị đơn mà thôi.
Ngoài ra, tại đơn khởi kiện, bản sao CMND và bản sao hộ khẩu nộp cho Tòa án đều thể hiện tên nguyên đơn là Nguyễn Thị Ngọc H. Nhưng đến khi kháng cáo bản án sơ thẩm lại ghi người kháng cáo là Trần Thị Ngọc H7 và biên lai thu tiền tạm ứng án phí phúc thẩm cũng ghi tên là Trần Thị Ngọc H7 thì cũng không đúng họ của nguyên đơn.
Như vậy, quá trình giải quyết vụ án, Tòa án sơ thẩm đã thiếu đưa những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của cụ Nguyễn Thị C và cụ Nguyễn Văn O1 vào tham gia tố tụng, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự.
(v) Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Nguyễn Thị C và chị T, các nguyên đơn cho rằng đất cấp cho hộ bà C vào năm 1997 gồm 13 thành viên, nhưng chỉ có 04 thành viên ký kết hợp đồng chuyển nhượng là không đúng . Căn cứ tài liệu có trong hồ sơ là xác nhận của công an xã Đ với nội dung xác nhận như sau “.. Hộ bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1938, HKTT ấp lạc H8, xã B, TX G, Tiền Giang, tại thời diểm ngày 07/9/1997 hộ gồm có 13 (mười ba) nhân khẩu:
1. Nguyễn Thị C, sn :1938
2. Nguyễn Kiều H2, sn:1959
3. Nguyễn Quốc Â, sn:1970
4. Nguyễn Trọng H3, sn:1973
5. Nguyễn Thanh B, sn:1962
6. Nguyễn Thị G, sn:1961
7. Nguyễn Trọng H4, sn: 1992
8. Nguyễn Thụy Sanh D3, sn: 1994
9. Nguyễn Xuân V, sn: 1983
10. Nguyễn Trọng N1, sn: 1988
11. Nguyễn Hoàng N2, sn:1990
12. Nguyễn Thị Ngọc H, sn: 1968
13. Nguyễn Thị Tuyết H9, sn: 1944.
Tại hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào năm 1997 thì thấy rằng, đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 23/4/1997 (bút lục số 69) ghi tên Nguyễn Thị C xin cấp tổng cộng 08 thửa đất với tổng diện tích 17.409m2, nguồn gốc đất thể hiện: Thửa đất số 1197 diện tích 703m2 là chuyển nhượng của bà Nguyễn Thị L2, còn lại các thửa đất gồm (các thửa đất số 83,85,200,202,203,367,368) có nguồn gốc cha mẹ cho vào năm 1975.
Như vậy đã có cơ sở xác định trong khối tài sản này có quyền sử dụng đất của chồng bà C là cụ Nguyễn Văn O1 (hôn nhân thực tế), nhưng đơn dăng ký quyền sử dụng đất ghi tên vợ (chồng) là Nguyễn Quốc Â. Tòa án sơ thẩm cũng chưa làm rõ các tình tiết này. Riêng thửa đất số 206 diện tích 3.445m2 do bà C đại diện hộ gia đình đứng tên và chuyển nhượng cho bà T. Xét thấy, tại hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 11/8/2004 (bút lục số 67) thể hiện anh Nguyễn Thanh B chuyển nhượng lại cho bà Nguyễn Thị C với nội dung “Con giao lại mẹ, không có tiền”, bên chuyển nhượng có ký tên và ghi họ tên gồm Nguyễn Thanh B, Nguyễn Thị G1, Nguyễn Xuân V và nguyễn Trọng N3. Bên nhận chuyển nhượng chỉ ghi cá nhân bà Nguyễn Thị C, nhưng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho hộ bà nguyễn Thị Chính (bút lục số 12) . Tòa án sơ thẩm cũng chưa làm rõ vấn đề này để xem quyền định đoạt của bà C và các thành viên trong hộ vào thời điểm năm 2004 có phù hợp với pháp luật hay không.
(vi) Tòa án sơ thẩm nhận định “Việc bà C là đại diện hộ đứng tên quyền sử dụng đất và thống nhất ký tên chuyển nhượng các thửa đất nêu trên cho bà T; bà T đã hoàn thành toàn bộ nghĩa vụ giao tiền 800.000.000 đồng là phù hợp với Điều 133 Bộ luật dân sự năm 2015.
Bà T sang nhượng lại cho chị D2 và hai bên cũng đã hoàn tất việc giao nhận tiền, đất cũng như Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh T đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho chị D2 xong.
Đất chị D2 quản lý, sử dụng từ năm 2019 đến nay. Chị D2 là người thứ ba ngay tình hợp pháp nên không có căn cứ để buộc chị D2 trả đất và không có căn cứ để hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của chị D2 và bà T…” để không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là chưa có cơ sở vững chắc.
(vii) Từ những căn cứ như trên, xét bản án sơ thẩm đã vi phạm tố tụng, thiếu đưa người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà C - ông O1 vào tham gia tố tụng. Thiếu thu thập chứng cứ là nguồn gốc hình thành các thửa đất, quá trình sử dụng và công sức đóng góp vào các thửa đất. Để đảm bảo quyền kháng cáo của các đương sự và đảm bảo 2 cấp xét xử. Tòa án phúc thẩm hủy toàn bộ bản án sơ thẩm mà chưa xem xét đến yêu cầu kháng cáo của các đương sự, chưa xem xét kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân Thị xã Gò Công (nay là Thành phố G).