Nội dung hủy án:
(i) Đối với kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng và kháng cáo của bị đơn bà Trương Thị B thì thấy rằng:
Về tố tụng: Theo biên bản xác minh ngày 12/01/2024 tại Công an xã M, huyện L (BL số 31) thì người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Quốc V, có hộ khẩu thường trú tại thôn B, xã M, huyện L. Nơi ở hiện tại số Q N, phường N, quận L, Thành phố Hà Nội. Hiện tại ông V không cư trú tại nơi đăng ký địa chỉ thường trú và cũng không có mặt, không sinh sống tại địa giới hành chính thuộc xã M quản lý. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm chưa tống đạt các văn bản tố tụng cho ông V tại địa chỉ nơi ở mà chỉ niêm yết tại nơi đăng ký hộ khẩu thường trú, trong khi ông V không có mặt tại địa chỉ này là không đảm bảo về thủ tục cấp, tống đạt, niêm yết công khai, quy định tại Điều 177, 179 Bộ luật Tố tụng dân sự.
(ii) Về nội dung: Theo đơn khởi kiện, ông P cho rằng ngay sau khi hợp đồng được công chứng ông sẽ đặt cọc cho ông Q1, bà B số tiền 6.000.000.000đ. Tại phiên tòa sơ thẩm, ông P trình bày ngay sau khi ký hợp đồng đặt cọc ngày 07/6/2022 thì tại nhà bà T1, ông P, bà T và bà T1 đã giao số tiền mặt là 6.000.000.000đ cho ông Q1, bà B, giao một lần và vợ chồng ông Q1, bà B cùng đếm tiền và nhận tiền. Tuy nhiên, tại biên bản lấy lời khai của ông P ngày 17/01/2023 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện L ông P trình bày: Quá trình mua bán đất thì bà Nguyễn Thị N là người nhận tiền đặt cọc của ông P mà không phải là vợ chồng ông Q1, bà B.
Biên bản đối chất ngày 04/12/2023 tại Tòa án nhân dân huyện Lâm Hà, ông P khai “Trước khi ký hợp đồng đặt cọc nêu trên với ông Q1, bà B thì sáng ngày 07/6/2022 vợ chồng ông có giao số tiền mặt là 3.000.000.000đ để đặt cọc cho vợ chồng ông Q1, bà B tại nhà mẹ vợ ông là bà Trần Thị T1, có camera ghi hình nhưng đến nay thời gian đã quá lâu nên không còn lưu trữ nữa. Sau khi ký hợp đồng đặt cọc xong, buổi trưa cùng ngày 07/6/2022, vợ chồng ông Q1, bà B về nhà mẹ vợ ông để nhận thêm số tiền đặt cọc là 3.000.000.000đ tiền mặt”. Tại biên bản lấy lời khai ngày 17/01/2023 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện L, bà T1 (mẹ vợ ông P) khai: “Vào giữa năm 2022, bà và ông Nguyễn Văn Q1 có thỏa thuận mua bán đất với nhau, bà mua của ông Q1 một mảnh đất diện tích 1,2ha thôn H, M, L với giá hơn 10.000.000.000đ, tôi đặt cọc cho ông Q1 số tiền 5.000.000.000đ...”.
Như vậy, lời khai của ông P có nhiều mâu thuẫn trong việc giao tiền đặt cọc, không thống nhất với lời trình bày của bà T1 về số tiền chuyển nhượng và số tiền đặt cọc. Ông P cũng không có chứng cứ chứng minh việc đã giao cho bị đơn số tiền 6.000.000.000đ, trong khi bị đơn không thừa nhận.
Tại giai đoạn phúc thẩm ông P có đơn đề nghị Tòa án thu thập chứng cứ và cho rằng các vấn đề Viện kiểm sát kháng nghị đã được Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh L làm rõ trong quá trình xử lý đơn tố giác tội phạm của ông đối với bà Trương Thị Bích . Tuy nhiên, các biên bản ghi lời khai và bản tường trình của ông Q1, bà N tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh L không có nội dung thể hiện ông Q1, bà B đã nhận số tiền 6.000.000.000đ của ông P.
Ngoài ra, theo biên bản đối chất ngày 04/12/2023 tại Tòa án nhân dân huyện Lâm Hà, bà Nguyễn Thị N trình bày bà N, ông Q1 và ông V có vay của bà T1 số tiền 6.000.000.000đ để làm ăn chung, vay nhiều lần. Bà T1 yêu cầu phải có tài sản thế chấp nên mọi người cùng thỏa thuận làm hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất thửa 168, tờ bản đồ số 17 tại xã M, huyện L của ông Q1, bà B để làm tin nên ông Q1, bà B đã ký hợp đồng đặt cọc với ông P, bà T. Số tiền 6.000.000.000đ do bà T1 chuyển khoản nhiều lần cho bà N. Còn bà T1 cho rằng khoảng đầu năm 2022 bà có cho bà N vay tiền vài lần mỗi lần khoảng vài trăm triệu, nhưng đến trước thời điểm ông P, bà T và ông Q1, bà B ký hợp đồng đặt cọc thì quan hệ vay mượn tiền giữa bà với bà N đã xong, không liên quan đến việc vợ chồng ông Q1, bà B ký hợp đồng đặt cọc với ông P, bà T. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm chưa làm rõ nội dung vay mượn tiền giữa các bên có liên quan đến việc chuyển nhượng diện tích đất thửa 168 nêu trên hay không? Chưa làm rõ việc vay mượn tiền có liên quan đến ông Q1 như lời trình bày của bà N hay không? Tài liệu có trong hồ sơ vụ án không có tài liệu nào thể hiện bị đơn đã nhận số tiền 6.000.000.000đ. Toà án cấp sơ thẩm cũng chưa làm rõ việc lập hợp đồng chuyển nhượng thửa đất số 168 có phải là hợp đồng giả cách để che dấu một giao dịch khác hay thực chất số tiền 6.000.000.000đ nói trên đúng là khoản tiền vay của các đương sự?
Bà N cho rằng khi vay tiền của bà T1 thì bà T1 yêu cầu phải có người nhà đứng ra bảo lãnh bằng hình thức lập Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tương tự như vụ án: “Tranh chấp hợp đồng đặt cọc” giữa nguyên đơn bà Ngô Thị Huyền T3 và bị đơn vợ chồng ông Q1, bà B mà Tòa án nhân dân huyện Lâm Hà đang thụ lý giải quyết. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm chưa lấy lời khai của các đương sự để làm rõ nội dung vay mượn tiền trong hai vụ án có liên quan đến việc các bên lập hợp đồng đặt cọc để chuyển nhượng diện tích đất thửa 168, tờ bản đồ số 17 tại xã M, huyện L hay không?.
Tòa án cấp sơ thẩm chưa làm rõ sau khi ký hợp đồng đặt cọc thì các bên có bàn giao đất trên thực địa hay không và ai là người quản lý, sử dụng trên diện tích đất này. Quá trình giải quyết vụ án bà T1 cho rằng khi bà đến thửa đất số 168, tờ bản đồ số 17 thì thấy vợ chồng bà N đang sửa lại nhà bếp, nhà kho trên phần diện tích đất chuyển nhượng.
Từ những phân tích trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã vi phạm thủ tục tố tụng và nội dung, cấp phúc thẩm không thể khắc phục được nên chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng, hủy toàn bộ bản án sơ thẩm. Chuyển hồ sơ về cho Tòa án nhân dân huyện Lâm Hà giải quyết lại vụ án theo đúng quy định của pháp luật.