Về việc đề nghị Tòa án thu thập chứng cứ, triệu tập người làm chứng trong tố tụng trọng tài được quy định như thế nào?

Về việc đề nghị Tòa án thu thập chứng cứ, triệu tập người làm chứng trong tố tụng trọng tài được quy định như thế nào?

Về việc đề nghị Tòa án thu thập chứng cứ, triệu tập người làm chứng trong tố tụng trọng tài được quy định như thế nào?

Luật sư cho tôi hỏi: Tôi là giám đốc một công ty chuyên sản xuất và cung cấp thiết bị chiếu sáng cho các dự án dân dụng. Gần đây, công ty tôi có tranh chấp hợp đồng với một đối tác trong việc thanh toán tiền hàng, nên hai bên đã đưa vụ việc ra giải quyết tại Trung tâm Trọng tài thương mại. Tuy nhiên, trong quá trình tố tụng, tôi nhận thấy một số tài liệu quan trọng đang do bên thứ ba (ngân hàng và đơn vị giám định chất lượng hàng hóa) nắm giữ và có một nhân viên cũ của đối tác có thể làm chứng về việc giao nhận hàng thực tế. Vì Trung tâm Trọng tài không có thẩm quyền cưỡng chế, tôi muốn đề nghị Tòa án hỗ trợ trong việc thu thập các chứng cứ này và triệu tập người làm chứng để làm rõ vụ việc. Vậy cho tôi hỏi, việc đề nghị Tòa án thu thập chứng cứ và triệu tập người làm chứng trong tố tụng trọng tài được pháp luật quy định như thế nào?

MỤC LỤC

1. Thu thập chứng cứ là gì?

2. Người làm chứng là ai?

3. Về việc đề nghị Tòa án thu thập chứng cứ, triệu tập người làm chứng trong tố tụng trọng tài được quy định như thế nào?

 

Trả lời:

1. Thu thập chứng cứ là gì?

Thu thập chứng cứ trong tố tụng trọng tài được hiểu là việc các bên tranh chấp và Hội đồng trọng tài tiến hành tìm kiếm, yêu cầu cung cấp, thu nhận và kiểm tra các tài liệu, vật chứng, lời khai hoặc thông tin liên quan đến vụ việc nhằm chứng minh cho yêu cầu, phản đối yêu cầu hoặc làm rõ những tình tiết khách quan của tranh chấp. Đây là cơ sở quan trọng để Hội đồng trọng tài đánh giá, ra quyết định đúng đắn, bảo đảm tính công bằng và khách quan trong quá trình giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.

Như vậy, thu thập chứng cứ không chỉ là trách nhiệm của các bên trong việc chứng minh yêu cầu của mình mà còn là quyền hạn hỗ trợ của Hội đồng trọng tài để bảo đảm tính toàn diện, chính xác khi giải quyết tranh chấp. Việc này góp phần nâng cao hiệu quả, uy tín và tính khả thi của phán quyết trọng tài.

2. Người làm chứng là ai?

Hiện nay pháp luật về trọng tài chưa đưa ra định nghĩa hay liệt kê cụ thể để làm rõ khái niệm về người làm chứng. Tuy nhiên, căn cứ theo những quy định pháp luật có liên quan, người làm chứng được hiểu là người biết các tình tiết có liên quan đến nội dung tranh chấp mà theo yêu cầu của một hoặc các bên, Hội đồng trọng tài có quyền yêu cầu người làm chứng có mặt tại phiên họp, cung cấp thông tin, tài liệu có liên quan đến việc giải quyết tranh chấp. Có thể thấy, lời khai của người làm chứng là một trong những nguồn chứng cứ quan trọng để xác định tình tiết khách quan và làm rõ bản chất của vụ kiện, bên cạnh các tài liệu, chứng từ do các bên cung cấp.

3. Về việc đề nghị Tòa án thu thập chứng cứ, triệu tập người làm chứng trong tố tụng trọng tài được quy định như thế nào?

Qua phân tích trên, có thể thấy việc thu thập chứng cứ và sự việc triệu tập người làm chứng đóng góp vai trò vô cùng quan trọng để làm rõ sự thật khách quan của vụ kiện. Về việc đề nghị Tòa án thu thập chứng cứ, triệu tập người làm chứng trong tố tụng trọng tài được pháp luật quy định tại Điều 11 Nghị quyết 01/2014/NQ-HĐTP ngày 20/3/2014 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định Luật Trọng tài thương mại quy định như sau:

Điều 11. Về đề nghị Tòa án thu thập chứng cứ, triệu tập người làm chứng quy định tại Điều 46 và Điều 47 Luật TTTM

1. Tòa án chỉ tiến hành thu thập chứng cứ trong trường hợp quy định tại khoản 5, 6 Điều 46 Luật TTTM nếu Hội đồng trọng tài, một hoặc các bên đã áp dụng các biện pháp cần thiết để thu thập chứng cứ mà vẫn không thu thập được (đã áp dụng các biện pháp cần thiết là đã sử dụng mọi cách thức và khả năng cho phép để yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ chứng cứ cung cấp cho mình chứng cứ mà vẫn không được cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp). Văn bản đề nghị Tòa án thu thập chứng cứ phải có đầy đủ nội dung quy định tại khoản 5 Điều 46 Luật TTTM, gửi kèm theo văn bản đề nghị là thỏa thuận trọng tài, đơn khởi kiện, tài liệu khác có liên quan và tài liệu, chứng cứ chứng minh việc đã tiến hành thu thập chứng cứ nhưng vẫn không thể tự mình thu thập được.

2. Trình tự, thủ tục thu thập, bảo quản, chuyển giao chứng cứ của Tòa án thực hiện theo quy định tại khoản 6 Điều 46 Luật TTTM và quy định của BLTTDS.

3. Tòa án chỉ tiến hành triệu tập người làm chứng khi có căn cứ chứng minh người làm chứng đã được Hội đồng trọng tài triệu tập hợp lệ mà không đến phiên họp nhưng không có lý do chính đáng và việc vắng mặt của họ gây cản trở cho việc giải quyết tranh chấp. Văn bản đề nghị triệu tập người làm chứng phải có đầy đủ nội dung quy định tại khoản 2 Điều 47 Luật TTTM, gửi kèm theo văn bản đề nghị là thỏa thuận trọng tài, đơn khởi kiện, tài liệu khác có liên quan và tài liệu, chứng cứ chứng minh việc triệu tập hợp lệ mà người làm chứng không đến phiên họp nhưng không có lý do chính đáng và việc vắng mặt của họ gây cản trở cho việc giải quyết tranh chấp.

4. Trình tự, thủ tục ra quyết định, triệu tập, thông báo kết quả triệu tập người làm chứng thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 47 Luật TTTM và quy định của BLTTDS.

5. Cùng với việc nộp các tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu, bên yêu cầu thu thập chứng cứ, triệu tập người làm chứng phải nộp lệ phí thu thập chứng cứ, triệu tập người làm chứng và chi phí thu thập chứng cứ, chi phí cho người làm chứng theo quy định. Trường hợp Hội đồng trọng tài yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ, triệu tập người làm chứng thì lệ phí thu thập chứng cứ, triệu tập người làm chứng và chi phí thu thập chứng cứ, chi phí cho người làm chứng do bên yêu cầu thu thập chứng cứ, triệu tập người làm chứng nộp thông qua Hội đồng trọng tài.

Diễn chiếu đến quy định tại khoản 5, 6 Điều 46 và khoản 2, 3 Điều 47 Luật Trọng tài thương mại 2010 quy định như sau:

Điều 46. Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài về thu thập chứng cứ

5. Trong trường hợp Hội đồng trọng tài, một hoặc các bên đã áp dụng các biện pháp cần thiết để thu thập chứng cứ mà vẫn không thể tự mình thu thập được thì có thể gửi văn bản đề nghị Toà án có thẩm quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được hoặc hiện vật khác liên quan đến vụ tranh chấp. Văn bản đề nghị phải nêu rõ nội dung vụ việc đang giải quyết tại Trọng tài, chứng cứ cần thu thập, lý do không thu thập được, tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý, lưu giữ chứng cứ cần thu thập đó.

6. Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản, đơn yêu cầu thu thập chứng cứ, Chánh án Tòa án có thẩm quyền phân công một Thẩm phán xem xét, giải quyết yêu cầu thu thập chứng cứ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày được phân công, Thẩm phán phải có văn bản yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý, lưu giữ cung cấp chứng cứ cho Tòa án và gửi văn bản đó cho Viện kiểm sát cùng cấp để thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật.

Cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý, lưu giữ chứng cứ có trách nhiệm cung cấp đầy đủ, kịp thời chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu.

Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được chứng cứ do cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp, Tòa án phải thông báo cho Hội đồng trọng tài, bên yêu cầu biết để tiến hành việc giao nhận chứng cứ.

Trường hợp quá thời hạn quy định mà cơ quan, tổ chức, cá nhân không cung cấp chứng cứ theo yêu cầu thì Tòa án phải thông báo ngay cho Hội đồng trọng tài, bên yêu cầu biết đồng thời có văn bản yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật.

Điều 47. Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài về triệu tập người làm chứng

2. Trường hợp người làm chứng đã được Hội đồng trọng tài triệu tập hợp lệ mà không đến phiên họp nhưng không có lý do chính đáng và việc vắng mặt của họ gây cản trở cho việc giải quyết tranh chấp, thì Hội đồng trọng tài gửi văn bản đề nghị Tòa án có thẩm quyền ra quyết định triệu tập người làm chứng đến phiên họp của Hội đồng trọng tài. Văn bản phải nêu rõ nội dung vụ việc đang được giải quyết tại Trọng tài; họ, tên, địa chỉ của người làm chứng; lý do cần triệu tập người làm chứng; thời gian, địa điểm người làm chứng cần phải có mặt.

3. Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị triệu tập người làm chứng của Hội đồng trọng tài, Chánh án Tòa án có thẩm quyền phân công một Thẩm phán xem xét, giải quyết yêu cầu triệu tập người làm chứng. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày được phân công, Thẩm phán phải ra quyết định triệu tập người làm chứng.

Quyết định triệu tập người làm chứng phải ghi rõ tên Hội đồng trọng tài yêu cầu triệu tập người làm chứng; nội dung vụ tranh chấp; họ, tên, địa chỉ của người làm chứng; thời gian, địa điểm người làm chứng phải có mặt theo yêu cầu của Hội đồng trọng tài.

Tòa án phải gửi ngay quyết định này cho Hội đồng trọng tài, người làm chứng đồng thời gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp để thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật.

Người làm chứng có nghĩa vụ nghiêm chỉnh thi hành quyết định của Tòa án.

Chi phí cho người làm chứng được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều này.

* Đối với đề nghị Tòa án thu thập chứng cứ trong tố tụng trong tài

Không phải trường hợp nào khi đương sự yêu cầu Tòa cũng có trách nhiệm thu thập chứng cứ mà Tòa chỉ thu thập chứng cứ khi đáp ứng một số điều kiện nhất định theo quy định của pháp luật, cụ thể như sau:

Trước đề nghị Tòa án thu thập chứng cứ trong tố tụng trong tài, bạn cần tự mình sử dụng mọi cách thức và khả năng cho phép để yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ chứng cứ cung cấp cho mình chứng cứ.

Trong trường hợp đã áp dụng các biện pháp cần thiết để thu thập chứng cứ mà vẫn không thể tự mình thu thập được, không được cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp. Khi đó, bạn sẽ cần gửi văn bản đề nghị Tòa án thu thập chứng cứ, văn bản này phải nêu rõ:

- Nội dung vụ việc đang giải quyết tại Trọng tài;

- Chứng cứ cần thu thập, lý do không thu thập được;

- Tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý, lưu giữ chứng cứ cần thu thập đó

Và cần gửi kèm theo văn bản đề nghị là thỏa thuận trọng tài, đơn khởi kiện, tài liệu khác có liên quan và tài liệu, chứng cứ chứng minh việc đã tiến hành thu thập chứng cứ nhưng vẫn không thể tự mình thu thập được.

Sau khi nhận được yêu cầu, Chánh án Tòa án có thẩm quyền phân công Thẩm phán giải quyết. Thẩm phán sẽ ra văn bản yêu cầu cung cấp chứng cứ trong thời hạn luật định, đồng thời thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp để đảm bảo giám sát tính hợp pháp của thủ tục.

* Đối với việc triệu tập người làm chứng

Theo yêu cầu của một hoặc các bên và xét thấy cần thiết, Hội đồng trọng tài có quyền yêu cầu người làm chứng có mặt tại phiên họp giải quyết tranh chấp. Trường hợp người làm chứng đã được Hội đồng trọng tài triệu tập hợp lệ mà không đến phiên họp nhưng không có lý do chính đáng và việc vắng mặt của họ gây cản trở cho việc giải quyết tranh chấp, thì Hội đồng trọng tài gửi văn bản đề nghị Tòa án có thẩm quyền ra quyết định triệu tập người làm chứng đến phiên họp của Hội đồng trọng tài.

Khi đó, Hội đồng trọng tài cần gửi văn bản đề nghị triệu tập người làm chứng cho Tòa án, phải nêu đầy đủ nội dung vụ việc đang được giải quyết tại Trọng tài; họ, tên, địa chỉ của người làm chứng; lý do cần triệu tập người làm chứng; thời gian, địa điểm người làm chứng cần phải có mặt.

Sau khi nhận được văn bản đề nghị, Tòa án có thẩm quyền sẽ ra quyết định triệu tập người làm chứng, gửi cho Hội đồng trọng tài, người làm chứng và Viện kiểm sát. Người làm chứng có nghĩa vụ chấp hành quyết định này và chi phí cho người làm chứng do bên yêu cầu triệu tập người làm chứng chịu hoặc do Hội đồng trọng tài phân bổ.

Việc Tòa án hỗ trợ thu thập chứng cứ và triệu tập người làm chứng là cơ chế bảo đảm tính khả thi trong hoạt động tố tụng trọng tài, bởi Hội đồng trọng tài không có quyền cưỡng chế như Tòa án. Nhờ sự hỗ trợ này, đảm bảo quyền chứng minh và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên, giúp làm rõ sự thật khách quan, tránh tình trạng một bên cố tình che giấu hoặc từ chối cung cấp chứng cứ. Đồng thời, nâng cao hiệu lực của phán quyết trọng tài, hạn chế việc phán quyết bị Tòa án hủy do vi phạm thủ tục thu thập, đánh giá chứng cứ.

Trân trọng./.

Bài viết liên quan

Góp ý