
Quyền phản đối là gì? Trường hợp nào bị mất quyền phản đối trong tố tụng trọng tài?
Luật sư cho tôi hỏi: Tôi đang tham gia giải quyết một tranh chấp thương mại thông qua trọng tài thương mại. Trong quá trình tố tụng, phía bên kia có một số hành vi và thủ tục mà tôi cho rằng chưa phù hợp với quy định, nhưng lúc đó tôi không kịp có ý kiến ngay vì nghĩ sau này vẫn có thể nêu ra. Đến nay, khi phiên họp trọng tài đã diễn ra, tôi mới định gửi văn bản phản đối thì được phía bên kia cho rằng tôi đã mất quyền phản đối. Xin hỏi luật sư, trong tố tụng trọng tài, quyền phản đối được hiểu cụ thể là gì và trong những trường hợp nào thì tôi sẽ bị coi là mất quyền phản đối?
MỤC LỤC
2. Trường hợp nào bị mất quyền phản đối trong tố tụng trọng tài?
Trả lời:
1. Quyền phản đối là gì?
Hiện nay pháp luật về trọng tài thương mại chưa có quy định cụ thể về định nghĩa thế nào là quyền phản đối. Tuy nhiên dựa trên các quy định có liên quan, có thể hiểu quyền phản đối là quyền của một bên tranh chấp, khi phát hiện có vi phạm pháp luật hoặc thoả thuận trọng tài được phép đưa ra phản đối tại Hội đồng trọng tài, Trung tâm trọng tài hoặc yêu cầu Toà án giải quyết. Quyền này nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, đảm bảo tính công bằng, minh bạch của quá trình giải quyết tranh chấp và phải được thực hiện kịp thời trong thời hạn quy định.
2. Trường hợp nào bị mất quyền phản đối trong tố tụng trọng tài?
Trường hợp mất quyền phản đối được quy định tại Điều 13 Luật Trọng tài thương mại 2010 như sau:
“Điều 13. Mất quyền phản đối
Trong trường hợp một bên phát hiện có vi phạm quy định của Luật này hoặc của thỏa thuận trọng tài mà vẫn tiếp tục thực hiện tố tụng trọng tài và không phản đối những vi phạm trong thời hạn do Luật này quy định thì mất quyền phản đối tại Trọng tài hoặc Tòa án.”
Bên cạnh đó, trường hợp mất quyền phản đối quy định tại Điều 13 Luật Trọng tài thương mại 2010 được hướng dẫn chi tiết tại Điều 6 Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP ngày 20/3/2014 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao về việc hướng dẫn thi hành một số quy định Luật Trọng tài thương mại:
“Điều 6. Mất quyền phản đối quy định tại Điều 13 Luật TTTM
1. Trường hợp một bên phát hiện có vi phạm quy định Luật TTTM hoặc của thỏa thuận trọng tài mà vẫn tiếp tục thực hiện tố tụng trọng tài và không phản đối với Hội đồng trọng tài, Trung tâm trọng tài những vi phạm đó trong thời hạn do Luật TTTM quy định thì mất quyền phản đối tại Trọng tài, hoặc tại Tòa án đối với những vi phạm đã biết đó. Trường hợp Luật TTTM không quy định thời hạn thì thời hạn được xác định theo thỏa thuận của các bên hoặc quy tắc tố tụng trọng tài. Trường hợp các bên không thỏa thuận hoặc quy tắc tố tụng trọng tài không quy định thì việc phản đối phải được thực hiện trước thời điểm Hội đồng trọng tài tuyên phán quyết.
2. Trước khi xem xét yêu cầu của một hoặc các bên về việc có vi phạm quy định Luật TTTM hoặc của thỏa thuận trọng tài, Tòa án phải kiểm tra các tài liệu, chứng cứ, quy tắc tố tụng trọng tài để xác định đối với yêu cầu đó, một hoặc các bên có mất quyền phản đối hay không mất quyền phản đối.
Trường hợp Tòa án xác định vi phạm đã mất quyền phản đối quy định tại Điều 13 Luật TTTM và hướng dẫn tại khoản 1 Điều này thì bên đã mất quyền phản đối không được quyền khiếu nại quyết định của Hội đồng trọng tài, yêu cầu hủy phán quyết trọng tài đối với những vi phạm đã mất quyền phản đối đó. Tòa án không được căn cứ vào các vi phạm mà một hoặc các bên đã mất quyền phản đối để quyết định chấp nhận yêu cầu của một hoặc các bên.
3. Khi giải quyết yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, Tòa án có trách nhiệm xem xét theo quy định tại điểm đ khoản 2 và điểm b khoản 3 Điều 68 Luật TTTM. Trường hợp xét thấy có đủ căn cứ để chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu thì Tòa án có quyền quyết định ngay cả khi một hoặc các bên đã mất quyền phản đối.”
Dẫn chiếu đến điểm đ khoản 2 và điểm b khoản 3 Điều 68 Luật Trọng tài thương mại 2010 quy định về căn cứ hủy phán quyết trọng tài:
“Ðiều 68. Căn cứ huỷ phán quyết trọng tài
2. Phán quyết trọng tài bị hủy nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
...
đ) Phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
3. Khi Tòa án xem xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, nghĩa vụ chứng minh được xác định như sau:
...
b) Đối với yêu cầu hủy phán quyết trọng tài quy định tại điểm đ khoản 2 Điều này, Tòa án có trách nhiệm chủ động xác minh thu thập chứng cứ để quyết định hủy hay không hủy phán quyết trọng tài.”
Theo đó, trường hợp được xem là bị mất quyền phản đối trong tố tụng trọng tài là trường hợp một trong các bên phát hiện có vi phạm quy định của Luật Trọng tài thương mại hoặc vi phạm quy định của thoả thuận trọng tài mà hai bên đã giao kết nhưng vẫn tiếp tục thực hiện tố tụng trọng tài và không có ý kiến phản đối với Hội đồng trọng tài hoặc Trung tâm trọng tài những vi phạm đã phát hiện đó trong thời hạn Luật Trọng tài thương mại quy định thì sẽ bị mất quyền phản đối tại Trọng tài hoặc Toà án đối với những vi phạm đã biết đó.
Về việc xác định thời hạn mất quyền phản đối cần lưu ý như sau:
- Trường hợp Luật Trọng tài thương mại không quy định thời hạn thì thời hạn mất quyền phản đối được xác định theo thỏa thuận của các bên hoặc quy tắc tố tụng trọng tài.
- Trường hợp các bên không thỏa thuận hoặc quy tắc tố tụng trọng tài không quy định thì việc phản đối phải được thực hiện trước thời điểm Hội đồng trọng tài tuyên phán quyết.
Pháp luật về trọng tài thương mại quy định rõ trách nhiệm của Toà án khi xem xét yêu cầu của một hoặc các bên về việc có vi phạm quy định Luật Trọng tài thương mại hoặc của thỏa thuận trọng tài thì phải kiểm tra các tài liệu, chứng cứ, quy tắc tố tụng trọng tài để xác định đối với yêu cầu đó, một hoặc các bên có mất quyền phản đối hay không mất quyền phản đối.
Trong trường hợp Tòa án xác định vi các vi phạm mà một hoặc các bên đã mất quyền phản đối để quyết định chấp phạm đã mất quyền phản đối quy định tại Điều 13 Luật Trọng tài thương mại và hướng dẫn tại khoản 1 Điều 6 Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP ngày 20/3/2014 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao về việc hướng dẫn thi hành một số quy định Luật Trọng tài thương mại thì bên đã mất quyền phản đối không được quyền khiếu nại quyết định của Hội đồng trọng tài, yêu cầu hủy phán quyết trọng tài đối với những vi phạm đã mất quyền phản đối đó. Tòa án không được căn cứ vào nhận yêu cầu của một hoặc các bên.
Pháp luật đặt ra quy định chặt chẽ như vậy không chỉ giúp bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia tố tụng trọng tài mà còn đặt ra trách nhiệm của cơ quan tố tụng là Toà án đảm bảo tốt nhất sự nghiêm minh của pháp luật.
Tuy nhiên có trường hợp ngoại lệ, khi giải quyết yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, Tòa án có trách nhiệm xem xét xem Phán quyết trọng tài có trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam hay không, trong trường hợp này Tòa án có trách nhiệm chủ động xác minh thu thập chứng cứ để quyết định hủy hay không hủy phán quyết trọng tài. Khi xét thấy có đủ căn cứ để chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu hủy phán quyết trọng tài thì Tòa án có quyền quyết định ngay cả khi một hoặc các bên đã mất quyền phản đối.
Trân trọng./.