
Hành vi gian dối “sửa bill” chuyển tiền từ thiện sẽ bị xử phạt ra sao?
Câu hỏi: Trong những ngày qua, không những chỉ riêng tôi mà hầu như còn là sự trăn trở, bức xúc của hầu hết mọi người khi phát hiện một số chiêu trò chỉnh sửa hóa đơn hay còn gọi là "fake bill" của một số cá nhân, sau khi Ủy ban Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) công khai sao kê số tiền ủng hộ đồng bào bị ảnh hưởng bão lũ số 3 cho đồng bào ta ở miền Bắc. Như vậy, luật sư có thể cho tôi hỏi hành vi “sửa bill” có phải bị xử phạt không, nếu có thì mức xử lý như thế nào? Xin cảm ơn!
Trả lời:
1. Hành vi gian dối “sửa bill” chuyển tiền từ thiện?
“Một miếng khi đói bằng một gói khi no”
Thật vậy, tấm lòng chia sẻ với bà con vùng lũ, dù lớn hay nhỏ đều đáng quý bởi mỗi người có điều kiện và hoàn cảnh khác nhau. Sự đóng góp không nên bị đánh giá qua số lượng nhiều hay ít, mà quan trọng hơn là tấm lòng và sự chân thành. Những hành động từ thiện, dù nhỏ bé, khi xuất phát từ tâm đều đáng trân trọng và ghi nhận.
Tuy nhiên, việc chỉnh sửa biên lai chuyển tiền hay sử dụng các công cụ như photoshop để tạo ra biên lai giả, nhằm nâng cao số tiền quyên góp thực tế, không chỉ là hành vi đi ngược lại giá trị đạo đức và lòng trung thực trong xã hội, mà còn có thể vi phạm pháp luật. Hành động này không chỉ đánh mất niềm tin của cộng đồng, mà còn gây ảnh hưởng xấu đến ý nghĩa cao đẹp của việc làm từ thiện. Đó là hành vi làm giả tài liệu và đưa tin sai sự thật. Tùy thuộc vào tính chất mức độ của hành vi vi phạm, tùy thuộc vào hậu quả xảy ra mà người sửa bill chuyển tiền sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
2. Hành vi gian dối “sửa bill” chuyển tiền từ thiện sẽ bị xử phạt ra sao?
Vấn đề chuyển khoản ủng hộ bão lũ nhưng cá nhân lại sửa biên lai chuyển khoản ngân hàng số lên nhiều lần để đăng lên mạng xã hội, chúng ta có hai trường hợp cần xem xét. Cụ thể:
Trường hợp 1: Trường hợp chuyển khoản, chia sẻ hình ảnh chuyển khoản, đăng lên facebook cá nhân để khoe, nhưng cố ý che con số những vẫn tác động để làm sai con số, khiến người xem hiểu sai, nghĩ sai về số tiền thực tế đã ủng hộ để khoe khoang, đánh bóng tên tuổi,… Trong trường hợp này, nếu hành vi này chỉ nhằm mục đích khoe khoang như trên thì chưa đủ yếu tố cấu thành hành vi vi phạm pháp luật và đơn giản khi làm như vậy, hậu quả đầu tiên phải chịu là bản án từ chính lương tâm của những người ấy và sự lên án, phê phán, chê cười từ cộng đồng mạng. Tiếp đến là danh tiếng, tương lai sự nghiệp sau này đều sẽ bị ảnh hưởng. Thực tế là những người ấy, họ vẫn chuyển tiền từ thiện nhưng lại phóng đại, thích khoe khoang những thứ mình chưa làm được hay việc mình làm chưa tới khiến chúng biến tướng trở thành hành vi thiếu chuẩn mực đạo đức lẫn tuân thủ theo đúng quy định pháp luật.
Nhưng điển hình là những trường hợp làm rậm rộ trên mạng xã hội nhưu hiện nay, có không ít người là thuộc nhóm có sức ảnh hưởng trên không gian mạng nên hậu quả của việc làm này có thể làm ảnh hưởng tư tưởng đến nhiều người nhưng chưa gây hậu quả xấu, chưa ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự, an toàn xã hội thì người đưa thông tin sai sự thật về việc chuyển tiền từ thiện này sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại Điều 101, Nghị định số 15/2020/NĐ-CP với mức phạt từ 10 - 20 triệu đồng với tổ chức và phạt từ 5 - 10 triệu đồng với cá nhân.
“Điều 101. Vi phạm các quy định về trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội
1. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với hành vi lợi dụng mạng xã hội để thực hiện một trong các hành vi sau:
a) Cung cấp, chia sẻ thông tin giả mạo, thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân;
b) Cung cấp, chia sẻ thông tin cổ súy các hủ tục, mê tín, dị đoan, dâm ô, đồi trụy, không phù hợp với thuần phong, mỹ tục của dân tộc;
c) Cung cấp, chia sẻ thông tin miêu tả tỉ mỉ hành động chém, giết, tai nạn, kinh dị, rùng rợn;
d) Cung cấp, chia sẻ thông tin bịa đặt, gây hoang mang trong Nhân dân, kích động bạo lực, tội ác, tệ nạn xã hội, đánh bạc hoặc phục vụ đánh bạc;
đ) Cung cấp, chia sẻ các tác phẩm báo chí, văn học, nghệ thuật, xuất bản phẩm mà không được sự đồng ý của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ hoặc chưa được phép lưu hành hoặc đã có quyết định cấm lưu hành hoặc tịch thu;
e) Quảng cáo, tuyên truyền, chia sẻ thông tin về hàng hóa, dịch vụ bị cấm;
g) Cung cấp, chia sẻ hình ảnh bản đồ Việt Nam nhưng không thể hiện hoặc thể hiện không đúng chủ quyền quốc gia;
h) Cung cấp, chia sẻ đường dẫn đến thông tin trên mạng có nội dung bị cấm.
2. Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với hành vi tiết lộ thông tin thuộc danh mục bí mật nhà nước, bí mật đời tư của cá nhân và bí mật khác mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.
3. Biện pháp khắc phục hậu quả:
Buộc gỡ bỏ thông tin sai sự thật hoặc gây nhầm lẫn hoặc thông tin vi phạm pháp luật do thực hiện hành vi vi phạm quy định tại các khoản 1 và 2 Điều này.”
Trường hợp 2: Người có ủng hộ nhưng "fake bill" chuyển khoản ngân hàng số lên nhiều lần để đăng lên các nền tảng mạng xã hội nhằm tạo niềm tin dẫn đến việc nhiều cá nhân chuyển khoản qua hoặc kêu gọi cá nhân chuyển khoản qua tài khoản cá nhân để ủng hộ nhưng thực tế lại không ủng hộ. Riêng với vấn đề này cần xem xét vì có thể đủ yếu tố để cấu thành các tội phạm nguy hiểm như tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (căn cứ theo Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017) hay tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (căn cứ theo Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017).
“Điều 175. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;
b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
e) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
g) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm.
4. Phạm tội chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”
“Điều 174. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;
b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
d) Tái phạm nguy hiểm;
đ) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
e) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
g) (được bãi bỏ)
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
b) (được bãi bỏ)
c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
b) (được bãi bỏ)
c) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”
Trân trọng./.