Bố mẹ có được quyền tặng cho con nuôi nhà, đất của hộ gia đình hay không?

Bố mẹ có được quyền tặng cho con nuôi nhà, đất của hộ gia đình hay không?

Bố mẹ có được quyền tặng cho con nuôi nhà, đất của hộ gia đình hay không?

Câu hỏi: Tôi là con nuôi hợp pháp trong gia đình, được ba mẹ nuôi nhận từ năm 1999 và có quyết định công nhận theo đúng trình tự pháp luật. Từ khi được nhận về làm con, tôi luôn coi ba mẹ nuôi như cha mẹ ruột, hết lòng yêu thương, kính trọng và phụng dưỡng. Trong suốt nhiều năm qua, đặc biệt là khi ba mẹ tuổi cao sức yếu, tôi chính là người trực tiếp chăm lo từ bữa ăn, giấc ngủ, thuốc men lúc ốm đau, bệnh tật cho đến những công việc hằng ngày trong gia đình. Đối với tôi, việc báo hiếu, chăm sóc cha mẹ chính là trách nhiệm và cũng là tình cảm tự nhiên, xuất phát từ lòng biết ơn và sự gắn bó máu thịt, dù mối quan hệ pháp lý là con nuôi.

Tuy nhiên, gần đây tôi được biết ba mẹ tôi có ý định tặng cho quyền sử dụng đất thuộc hộ gia đình, hiện đang đứng tên chung cho em gái tôi, là con ruột của ba mẹ nuôi. Tôi vô cùng buồn lòng bởi em gái tôi từ lâu vốn sa vào cờ bạc, ăn chơi, tiêu xài hoang phí, nhiều lần bị cơ quan công an nhắc nhở, xử lý nhưng vẫn không hề thay đổi. Trong khi đó, tôi, với tư cách là con nuôi, người luôn kề cận phụng dưỡng và giữ gìn nề nếp gia đình, lại không được ba mẹ xem xét chia cho quyền lợi gì liên quan đến khối tài sản chung này. Điều này khiến tôi cảm thấy không chỉ bị tổn thương về mặt tình cảm mà còn lo ngại quyền và lợi ích hợp pháp của mình, với tư cách là thành viên hộ gia đình có tên trong quyền sử dụng đất sẽ bị xâm phạm.

Vì vậy, tôi băn khoăn đặt ra câu hỏi: Liệu việc ba mẹ tôi đơn phương tặng cho em gái tôi toàn bộ quyền sử dụng đất đứng tên hộ gia đình như vậy có được pháp luật cho phép hay không? Nếu có thể thực hiện, thì giao dịch này cần đáp ứng những điều kiện cụ thể nào để đảm bảo tính hợp pháp và có hiệu lực? Ngược lại, nếu việc định đoạt này không có sự đồng thuận đầy đủ của các thành viên trong hộ gia đình, trong đó có tôi thì giao dịch đó có bị coi là vô hiệu hay không?

MỤC LỤC

1. Con nuôi là gì? Cha mẹ nuôi là gì? Đối tượng nào được nhận làm con nuôi?

2. Bố mẹ có được quyền tặng cho con nuôi nhà, đất của hộ gia đình hay không?

 

Trả lời:

1. Con nuôi là gì? Cha mẹ nuôi là gì? Đối tượng nào được nhận làm con nuôi?

Căn cứ theo khoản 2, khoản 3 Điều 3 và Điều 8 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 quy định như sau:

Điều 3. Giải thích từ ngữ

Trong Luật này, những từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:

2. Cha mẹ nuôi là người nhận con nuôi sau khi việc nuôi con nuôi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký.

3. Con nuôi là người được nhận làm con nuôi sau khi việc nuôi con nuôi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký.”

Điều 8. Người được nhận làm con nuôi

1. Trẻ em dưới 16 tuổi

2. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Được cha dượng, mẹ kế nhận làm con nuôi;

b) Được cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận làm con nuôi.

3. Một người chỉ được làm con nuôi của một người độc thân hoặc của cả hai người là vợ chồng.

4. Nhà nước khuyến khích việc nhận trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khác làm con nuôi.”

Theo đó, con nuôi và cha mẹ nuôi chỉ được pháp luật công nhận khi quan hệ nuôi con nuôi được đăng ký hợp pháp tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Theo đó, cha mẹ nuôi là người nhận con nuôi sau khi hoàn tất thủ tục đăng ký; còn con nuôi là người được nhận làm con nuôi hợp pháp.

Đối tượng được nhận làm con nuôi chủ yếu là trẻ em dưới 16 tuổi; ngoài ra, pháp luật cho phép người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi được nhận làm con nuôi trong những trường hợp đặc biệt, cụ thể là khi được cha dượng, mẹ kế hoặc người thân thích ruột thịt (cô, cậu, dì, chú, bác) nhận nuôi. Nguyên tắc cơ bản là một người chỉ có thể là con nuôi của một người độc thân hoặc của cả hai vợ chồng, nhằm bảo đảm tính ổn định của quan hệ gia đình và quyền lợi của người được nhận nuôi. Đồng thời, Nhà nước khuyến khích nhận nuôi trẻ mồ côi, trẻ bị bỏ rơi và trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, qua đó thể hiện mục tiêu nhân đạo, góp phần bảo vệ và chăm sóc trẻ em.

Vậy nên, chế định nuôi con nuôi không chỉ điều chỉnh rõ ràng về khái niệm cha mẹ nuôi, con nuôi mà còn đặt ra điều kiện chặt chẽ đối với đối tượng được nhận nuôi, bảo đảm rằng việc nhận nuôi là hợp pháp, đúng đối tượng, phục vụ mục đích nhân văn và vì lợi ích tốt nhất của trẻ em.

2. Bố mẹ có được quyền tặng cho con nuôi nhà, đất của hộ gia đình hay không?

Việc quyền sử dụng đất thuộc sở hữu chung hộ gia đình được quy định tại Điều 212 Bộ luật Dân sự năm 2015 và khoản 25 Điều 3 Luật Đất đai năm 2024 như sau:

“Điều 3. Giải thích từ ngữ

25. Hộ gia đình sử dụng đất là những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, đang sống chung và có quyền sử dụng đất chung tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành.”

“Điều 212. Sở hữu chung của các thành viên gia đình

1. Tài sản của các thành viên gia đình cùng sống chung gồm tài sản do các thành viên đóng góp, cùng nhau tạo lập nên và những tài sản khác được xác lập quyền sở hữu theo quy định của Bộ luật này và luật khác có liên quan.

2. Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của các thành viên gia đình được thực hiện theo phương thức thỏa thuận. Trường hợp định đoạt tài sản là bất động sản, động sản có đăng ký, tài sản là nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình phải có sự thỏa thuận của tất cả các thành viên gia đình là người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp luật có quy định khác.

Trường hợp không có thỏa thuận thì áp dụng quy định về sở hữu chung theo phần được quy định tại Bộ luật này và luật khác có liên quan, trừ trường hợp quy định tại Điều 213 của Bộ luật này.”

Dẫn chiếu đến Điều 213 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định như sau:

Điều 213. Sở hữu chung của vợ chồng

1. Sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia.

2. Vợ chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản chung; có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.

3. Vợ chồng thỏa thuận hoặc ủy quyền cho nhau chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.

4. Tài sản chung của vợ chồng có thể phân chia theo thỏa thuận hoặc theo quyết định của Tòa án.

5. Trường hợp vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình thì tài sản chung của vợ chồng được áp dụng theo chế độ tài sản này.”

Theo đó, quyền sử dụng đất thuộc sở hữu chung của hộ gia đình được xác định là tài sản chung hợp nhất của các thành viên trong hộ có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng và cùng đang chung sống tại thời điểm Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất hoặc nhận chuyển quyền sử dụng đất.

Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt quyền sử dụng đất này phải được thực hiện trên cơ sở thỏa thuận của tất cả các thành viên đã thành niên, có đầy đủ năng lực hành vi dân sự. Đặc biệt, khi quyền sử dụng đất được coi là tài sản chung đặc biệt (bất động sản, động sản có đăng ký, tài sản là nguồn sống chủ yếu của gia đình) thì mọi quyết định định đoạt đều phải có sự thống nhất ý chí của toàn bộ thành viên đủ điều kiện pháp luật, nhằm bảo đảm sự công bằng, minh bạch và tránh xung đột lợi ích.

Trong trường hợp không đạt được sự thỏa thuận chung, quan hệ pháp lý về sở hữu sẽ được xử lý theo quy định về sở hữu chung theo phần, trừ trường hợp quyền sử dụng đất là tài sản chung hợp nhất của vợ chồng thì áp dụng quy định tại Điều 213 Bộ luật Dân sự 2015 đối với việc sở hữu chung của vợ chồng.

Do đó, cơ chế pháp lý về quyền sử dụng đất thuộc sở hữu chung của hộ gia đình vừa đảm bảo nguyên tắc thỏa thuận, vừa có cơ chế pháp luật bổ trợ khi phát sinh tranh chấp, qua đó khẳng định tính chặt chẽ, khoa học và thống nhất trong điều chỉnh quan hệ tài sản này.

Như vậy, khi áp dụng vào tình huống cụ thể: Việc ba mẹ nuôi bạn đơn phương tặng cho toàn bộ quyền sử dụng đất hộ gia đình cho em gái bạn khi chưa có sự đồng ý của bạn là không phù hợp với quy định pháp luật, dẫn đến nguy cơ giao dịch bị tuyên bố vô hiệu theo các quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2015 về giao dịch dân sự vô hiệu. Ngược lại, nếu việc tặng cho được tiến hành đúng thủ tục, có sự đồng thuận đầy đủ của các thành viên, hợp đồng tặng cho được công chứng hoặc chứng thực và đăng ký biến động theo Luật Đất đai năm 2024, thì giao dịch mới có giá trị pháp lý và hiệu lực thi hành.

Cha mẹ bạn có thể tặng cho em gái bạn quyền sử dụng đất thuộc hộ gia đình khi và chỉ khi tất cả các thành viên khác của hộ gia đình đồng ý và tham gia xác lập ý chí theo đúng trình tự, hình thức pháp luật quy định (văn bản tặng cho/chuyển nhượng, công chứng/chứng thực, hồ sơ đăng ký sang tên tại cơ quan đăng ký đất đai). Thực hiện đúng những yêu cầu này không chỉ là điều kiện có hiệu lực của giao dịch mà còn là biện pháp phòng ngừa tranh chấp, bảo đảm tính bền vững của quyền đối với bất động sản sau khi chuyển dịch.

Trân trọng./.

Góp ý