Áp dụng biện pháp kiểm tra hải quan trong quá trình làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu được thực hiện như thế nào?

Áp dụng biện pháp kiểm tra hải quan trong quá trình làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu được thực hiện như thế nào?

Áp dụng biện pháp kiểm tra hải quan trong quá trình làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu được thực hiện như thế nào?

Luật sư cho tôi hỏi: Công ty chúng tôi chuyên nhập khẩu thiết bị điện tử từ Nhật Bản về Việt Nam. Khi làm thủ tục hải quan cho lô hàng mới, hệ thống hải quan điện tử tự động phân luồng và dựa trên kết quả đó, cơ quan hải quan đã tiến hànhkiểm tra thực tế hàng hóa. Điều này tôi nhận thấy có sự khác biệt và phức tạp hơn đối với các lô hàng trước đó mà công ty tôi nhập khẩu nhưng vẫn chưa biết các khía cạnh pháp lý liên quan đến hoạt động trên là gì. Vì vậy, tôi muốn hỏi Luật sư, áp dụng biện pháp kiểm tra hải quan trong quá trình làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu được thực hiện như thế nào theo quy định của pháp luật hiện hành? Kính mong Luật sư giải đáp thắc mắc giúp tôi.

MỤC LỤC

1. Phân loại mức độ tuân thủ pháp luật đối với người khai hải quan được thực hiện như thế nào?

2. Áp dụng biện pháp kiểm tra hải quan trong quá trình làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu được thực hiện như thế nào?

 

Trả lời:

1. Phân loại mức độ tuân thủ pháp luật đối với người khai hải quan được thực hiện như thế nào?  

Phân loại mức độ tuân thủ pháp luật đối với người khai hải quan được thực hiện theo quy định tại Điều 10 Thông tư số 81/2019/TT-BTC ngày 15/11/2019 của Bộ Tài chính về việc quy định quản lý rủi ro trong hoạt động nghiệp vụ hải quan được sửa đổi bởi khoản 4 Điều 1 Thông tư số 06/2024/TT-BTC ngày 29/01/2024 của Bộ Tài chính về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 81/2019/TT/BTC ngày 15/11/2019 của Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định quản lý rủi ro trong hoạt động nghiệp vụ hải quan như sau:

“Điều 10. Phân loại mức độ tuân thủ pháp luật đối với người khai hải quan

Cơ quan Hải quan thực hiện đánh giá phân loại mức độ tuân thủ pháp luật đối với người khai hải quan có hoạt động xuất nhập khẩu, xuất nhập cảnh trong 365 ngày liên tiếp trở về trước tính từ ngày đánh giá theo một trong các mức độ tuân thủ pháp luật như sau:

1. Mức 1: Doanh nghiệp ưu tiên.

2. Mức 2: Doanh nghiệp tuân thủ mức rất cao.

3. Mức 3: Doanh nghiệp tuân thủ mức cao.

4. Mức 4: Doanh nghiệp tuân thủ mức trung bình.

5. Mức 5: Doanh nghiệp không tuân thủ.”

Theo đó, điều luật ngoài phân định các mức độ tuân thủ pháp luật đối với người khai hải quan theo các mức: ưu tiên, tuân thủ mức rất cao, tuân thủ mức cao, tuân thủ mức trung bình, không tuân thủ thì còn thể hiện thời gian đánh giá phân loại là trong 365 ngày liên tiếp trở về trước tính từ ngày đánh giá theo một trong các mức độ tuân thủ pháp luật. Thể hiện tính phân tầng, minh bạch và hệ thống hóa trong quản lý tuân thủ, giúp cơ quan hải quan dễ dàng áp dụng các biện pháp quản lý phù hợp với từng nhóm đối tượng.

Về mặt pháp lý, quy định này tạo cơ sở cho việc áp dụng cơ chế quản lý rủi ro trong hoạt động hải quan, qua đó đảm bảo nguyên tắc đối xử phân biệt hợp lý giữa các doanh nghiệp theo mức độ tuân thủ. Doanh nghiệp có mức tuân thủ cao được hưởng nhiều ưu tiên trong thủ tục hải quan như thông quan nhanh, giảm kiểm tra hồ sơ hoặc hàng hóa; ngược lại, doanh nghiệp có mức tuân thủ thấp sẽ bị kiểm soát chặt chẽ hơn. Điều này góp phần khuyến khích doanh nghiệp tự giác chấp hành pháp luật, nâng cao tính minh bạch và hiệu quả trong công tác quản lý nhà nước về hải quan, đồng thời giảm thiểu rủi ro gian lận thương mại và thất thu thuế cho Nhà nước.

2. Áp dụng biện pháp kiểm tra hải quan trong quá trình làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu được thực hiện như thế nào?  

Áp dụng biện pháp kiểm tra hải quan trong quá trình làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu được thực hiện theo quy định tại Điều 10 Thông tư số 38/2015/TT-BTC ngày 25/3/2015 của Bộ Tài chính quy định về thủ tục hải quan; kiểm tra, giám sát hải quan; thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và quản lý thuế đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu như sau:

“Điều 10. Áp dụng biện pháp kiểm tra hải quan trong quá trình làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu

1. Nguyên tắc chung:

a) Việc xác định hàng hóa phải kiểm tra thực tế được dựa trên quản lý rủi ro thông qua phân luồng của Hệ thống; Chi cục trưởng Chi cục Hải quan thực hiện quyết định kiểm tra theo thông báo phân luồng của Hệ thống và kiểm tra ngẫu nhiên đánh giá sự tuân thủ của người khai hải quan theo quy định, hướng dẫn của Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan; trên cơ sở đó thực hiện việc kiểm tra thực tế hàng hóa theo quy định tại Điều 29 Thông tư này.

b) Việc kiểm tra hàng hóa thuộc diện quản lý chuyên ngành được thực hiện theo quy định của pháp luật chuyên ngành; thực hiện kiểm tra thực tế toàn bộ lô hàng đối với trường hợp có dấu hiệu vi phạm pháp luật về hải quan.

2. Việc kiểm tra hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh của doanh nghiệp ưu tiên được thực hiện theo Thông tư riêng của Bộ Tài chính.

3. Việc kiểm tra hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh của doanh nghiệp tuân thủ được thực hiện như sau:

a) Kiểm tra trực tiếp hồ sơ trong các trường hợp:

a.1) Có dấu hiệu vi phạm pháp luật về hải quan;

a.2) Lựa chọn không quá 5% trên tổng tờ khai hải quan hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu trên cơ sở phân tích, đánh giá rủi ro;

a.3) Hàng hóa theo quy định của pháp luật chuyên ngành phải kiểm tra trực tiếp hồ sơ.

b) Kiểm tra thực tế hàng hóa trong các trường hợp:

b.1) Có dấu hiệu vi phạm pháp luật về hải quan;

b.2) Lựa chọn không quá 1% trên tổng tờ khai hải quan hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu trên cơ sở phân tích, đánh giá rủi ro;

b.3) Theo quy định của pháp luật chuyên ngành phải kiểm tra thực tế hàng hóa.

c) Cơ quan hải quan thực hiện kiểm tra đánh giá tuân thủ đối với doanh nghiệp tuân thủ theo khoản 2 Điều 11 Thông tư này.

4. Việc kiểm tra hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh của doanh nghiệp không tuân thủ được thực hiện như sau:

a) Kiểm tra trực tiếp hồ sơ trong các trường hợp:

a.1) Có dấu hiệu vi phạm pháp luật về hải quan;

a.2) Hàng hóa theo quy định của pháp luật chuyên ngành phải kiểm tra trực tiếp hồ sơ;

a.3) Lựa chọn kiểm tra trực tiếp hồ sơ không quá 50% trên tổng tờ khai hải quan hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu trên cơ sở kết quả phân tích, đánh giá rủi ro.

b) Kiểm tra thực tế hàng hóa trong các trường hợp:

b.1) Quy định tại điểm b.1, b.3 khoản 3 Điều này;

b.2) Lựa chọn kiểm tra thực tế hàng hóa tối thiểu 20% trên tổng tờ khai hải quan hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu trên cơ sở kết quả phân tích, đánh giá rủi ro.”

Đồng thời, liên quan đến hoạt động kiểm tra thực tế hàng hoá, tại Mục 1 Công văn số 7892/BTC-TCHQ ngày 15/6/2015 của Bộ Tài chính về việc hướng dẫn thực hiện một số quy định tại Thông tư số 38/2015/TT-BTC giải quyết vướng mắc như sau:

“1. Về việc kiểm tra thực tế hàng hóa:

a) Quy định tại điểm b.3 khoản 3 Điều 10 Thông tư 38/2015/TT-BTC ngày 25/3/2015 của Bộ Tài chính chỉ được áp dụng khi pháp luật chuyên ngành có quy định cơ quan Hải quan phải kiểm tra thực tế hàng hóa trước khi thông quan thì cơ quan Hải quan phải kiểm tra thực tế hàng hóa trước khi thông quan.

b) Việc kiểm tra điện thoại di động thực hiện theo nguyên tắc quản lý rủi ro (Công văn này thay thế công văn số 7922/BTC-TCHQ ngày 17/6/2010 của Bộ Tài chính.)

…”

* Lưu ý: Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan, Chi cục trưởng Chi cục Hải quan hiện nay lần lượt được thay thế bằng Cục trưởng Cục Hải quan, Đội trưởng Hải quan (tham khảo quy định tại điểm đ, điểm g khoản 1 Điều 2 Nghị định số 167/2025/NĐ-CP ngày 30/6/2025 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 08/2015/NĐ-CP ngày 21/01/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật Hải quan về thủ tục hải quan, kiểm tra, giám sát, kiểm soát hải quan).

Theo đó, quy định trên nêu rõ nguyên tắc và phạm vi áp dụng các biện pháp kiểm tra hải quan trong quá trình làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu với nguyên tắc chung như sau:

Thứ nhất, việc xác định hàng hóa phải kiểm tra thực tế được thực hiện thông qua phân luồng tự động của Hệ thống xử lý dữ liệu điện tử hải quan; chủ thể có thẩm quyền thực hiện quyết định kiểm tra theo thông báo phân luồng của Hệ thống và kiểm tra ngẫu nhiên đánh giá sự tuân thủ của người khai hải quan theo quy định, hướng dẫn. Trên cơ sở đó mới hình thành nên căn cứ thực hiện việc kiểm tra thực tế hàng hóa;

Thứ hai, việc kiểm tra hàng hóa thuộc diện quản lý chuyên ngành được thực hiện theo quy định của pháp luật chuyên ngành;

Thứ ba, thực hiện kiểm tra thực tế toàn bộ lô hàng đối với trường hợp có dấu hiệu vi phạm pháp luật về hải quan.

Dựa trên các nguyên tắc chung trên, việc phân hoá hoạt động kiểm tra được xác định tùy theo mức độ tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp. Cụ thể:

- Doanh nghiệp ưu tiên sẽ thực hiện theo Thông tư riêng của Bộ Tài chính;

- Doanh nghiệp tuân thủ chịu kiểm tra trực tiếp hồ sơ hoặc kiểm tra thực tế hàng hoá trong các trường hợp pháp luật quy định;

-  Doanh nghiệp không tuân thủ có các hình thức kiểm tra tương tự như doanh nghiệp tuân thủ, tuy nhiên doanh nghiệp không tuân thủ sẽ chịu tần suất kiểm tra cao hơn và phạm vi kiểm tra rộng hơn.

Ngoài ra, điều luật cũng đề cập đến việc áp dụng các quy định của pháp luật chuyên ngành đối với hàng hóa thuộc diện kiểm tra đặc thù. Cách quy định này đảm bảo sự phân tầng rủi ro hợp lý, giúp cơ quan hải quan tập trung nguồn lực kiểm tra vào đối tượng có nguy cơ vi phạm cao thay vì áp dụng đồng loạt cho mọi doanh nghiệp, lĩnh vực, ngành nghề.

Từ đó, quy định có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về hải quan, đồng thời tạo thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp. Việc phân loại và áp dụng biện pháp kiểm tra dựa trên mức độ rủi ro giúp rút ngắn thời gian thông quan, giảm chi phí hành chính và thúc đẩy thương mại quốc tế. Bên cạnh đó, còn tăng cường tính minh bạch và công bằng trong hoạt động kiểm tra, giúp xây dựng niềm tin giữa cơ quan hải quan và cộng đồng doanh nghiệp. Về mặt quản lý, đây còn là công cụ hữu hiệu để phòng ngừa và phát hiện vi phạm, góp phần bảo đảm an ninh kinh tế và bảo vệ lợi ích quốc gia trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng.

Trân trọng./.

Bài viết liên quan

Góp ý