
Người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài có được tặng cho nhà ở tại Việt Nam hay không?
Luật sư cho tôi hỏi: Tôi là người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài, tôi có đứng tên sở hữu một căn nhà ở Việt Nam do nhận thừa kế từ bố mẹ tôi. Do không thường xuyên về Việt Nam nên vấn đề quản lý tài sản cũng gặp không ít khó khăn. Tôi dự định tặng cho lại ngôi nhà này cho cháu của tôi không biết có được không? Nhờ Luật sư tư vấn giúp, xin cảm ơn!
MỤC LỤC
1. Người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài là gì?
2. Người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài có được tặng cho nhà ở tại Việt Nam hay không?
Trả lời:
1. Người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài là gì?
Căn cứ theo khoản 4 Điều 3 Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 quy định về định nghĩa người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài như sau:
“Điều 3. Giải thích từ ngữ
Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
…
4. Người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài là người Việt Nam đã từng có quốc tịch Việt Nam mà khi sinh ra quốc tịch của họ được xác định theo nguyên tắc huyết thống và con, cháu của họ đang cư trú, sinh sống lâu dài ở nước ngoài.”
Từ quy định trên, có thể thấy việc “người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài” là những cá nhân có nguồn gốc Việt Nam, cụ thể là người đã từng có quốc tịch Việt Nam hoặc người mà khi sinh ra có quốc tịch được xác định theo nguyên tắc huyết thống (cha hoặc mẹ là người Việt Nam), đồng thời hiện đang cư trú, sinh sống lâu dài ở nước ngoài.
Khái niệm này mang ý nghĩa xác định mối liên hệ pháp lý và huyết thống giữa Nhà nước Việt Nam với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, qua đó làm cơ sở để xác định quyền và nghĩa vụ của họ theo quy định pháp luật. Việc quy định rõ khái niệm này nhằm thể hiện chính sách nhất quán của Nhà nước trong việc duy trì sự gắn kết giữa người Việt Nam ở nước ngoài với Tổ quốc, đồng thời đảm bảo tính minh bạch, thống nhất trong việc áp dụng pháp luật về quốc tịch và các quyền liên quan.
2. Người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài có được tặng cho nhà ở tại Việt Nam hay không?
Căn cứ theo điểm h khoản 1 Điều 28 và khoản 1, khoản 2 Điều 44 Luật Đất đai năm 2024 quy định như sau:
“Điều 28. Nhận quyền sử dụng đất
1. Người nhận quyền sử dụng đất được quy định như sau:
…
h) Người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài được phép nhập cảnh vào Việt Nam được mua, thuê mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở, nhận quyền sử dụng đất ở trong dự án phát triển nhà ở; nhận thừa kế quyền sử dụng đất ở và các loại đất khác trong cùng thửa đất có nhà ở theo quy định của pháp luật về dân sự; nhận tặng cho nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở từ những người thuộc hàng thừa kế theo quy định của pháp luật về dân sự.”
và
“Điều 44. Quyền và nghĩa vụ về sử dụng đất ở của người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở tại Việt Nam; người nước ngoài hoặc người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài không thuộc đối tượng được sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam
1. Người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài được phép nhập cảnh vào Việt Nam thì được sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam; có quyền sử dụng đất ở do nhận chuyển quyền sử dụng đất ở trong các dự án phát triển nhà ở.
2. Người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc đối tượng quy định tại khoản 1 Điều này có các quyền và nghĩa vụ sau đây:
a) Quyền và nghĩa vụ chung quy định tại Điều 26 và Điều 31 của Luật này;
b) Chuyển quyền sử dụng đất ở khi bán, tặng cho, để thừa kế, đổi nhà ở cho tổ chức, cá nhân, người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc đối tượng được sở hữu nhà ở tại Việt Nam; tặng cho nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở cho Nhà nước, cộng đồng dân cư, tặng cho để làm nhà tình nghĩa, nhà tình thương, nhà đại đoàn kết. Trường hợp tặng cho, để thừa kế cho đối tượng không được sở hữu nhà ở tại Việt Nam thì đối tượng này chỉ được hưởng giá trị của nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở và không được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất;
c) Chuyển nhượng, cho thuê, tặng cho, để thừa kế, góp vốn bằng quyền sử dụng đất ở theo quy định của Luật này;
d) Thế chấp nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại tổ chức tín dụng được phép hoạt động tại Việt Nam.”
Theo đó, người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài, nếu được phép nhập cảnh vào Việt Nam thì sẽ được quyền nhận, sở hữu và thực hiện các giao dịch liên quan đến nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở trong một số phạm vi nhất định. Cụ thể, họ được mua, thuê mua nhà ở trong dự án phát triển nhà ở, được nhận quyền sử dụng đất ở, được nhận thừa kế quyền sử dụng đất ở và các loại đất khác trong cùng thửa đất có nhà ở, cũng như được nhận tặng cho nhà ở gắn liền với đất ở nhưng chỉ từ những người thuộc hàng thừa kế theo pháp luật dân sự.
Cụ thể, nếu người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài đã được phép nhập cảnh thì họ được công nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, do đó có thể nhận tặng cho, chuyển nhượng, thừa kế hoặc thực hiện các giao dịch khác hợp pháp. Trường hợp người được tặng cho không thuộc đối tượng được sở hữu nhà ở tại Việt Nam thì người đó chỉ được hưởng giá trị của nhà ở, quyền sử dụng đất ở, không được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất.
Như vậy, với tình huống của ông/bà đã nêu, nếu cháu của ông/bà là công dân Việt Nam hoặc người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài nhưng được phép nhập cảnh vào Việt Nam thì ông/bà hoàn toàn có thể thực hiện việc tặng cho ngôi nhà này hợp pháp và cháu của ông/bà sẽ được quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất. Ngược lại, nếu cháu của ông/bà không thuộc đối tượng được sở hữu nhà ở tại Việt Nam thì ông/bà vẫn có thể lập hợp đồng tặng cho nhưng cháu của ông/bà chỉ được nhận giá trị tài sản, quyền sử dụng tài sản nhưng sẽ không được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu.
Trân trọng./.












