Bản án dân sự phúc thẩm số 75/2023/DS-PT ngày 22/5/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước về tranh chấp phân chia di sản theo di chúc

Nội dung hủy án:

(i) Thủ tục thụ lý vụ án:

Các bên đương sự trong vụ án đều thừa nhận tại thời điểm lập Bản di chúc ngày 02/5/2006, bà T1 còn minh mẫn, sáng suốt, không bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép, nội dung bản di chúc đúng ý chí của bà T1 và có mặt các con cháu đều biết và cùng ký vào bản di chúc.

Theo Điều 633 BLDS 2005 quy định thời điểm, địa điểm mở thừa kế

“1. Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trong trường hợp Toà án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định tại khoản 2 Điều 81 của Bộ luật này……….”.

Theo quy định trên thì sau khi người để lại di sản chết thì di sản thừa kế mới được phân chia cho những người thừa kế theo di chúc. Trong vụ án này, tuy bà T1 lập Bản di chúc định đoạt tài sản là quyền sử dụng đất của bà để lại cho con, cháu, nhưng bản di chúc được tất cả mọi người ký tên trong đó, sau khi lập bản di chúc bà T1 đã giao đất cho các con và cháu sử dụng ổn định từ thời điểm đó, những phần đất này đã được bà T1 phân chia, định đoạt trước khi bà T1 chết. Trong số những người được chia đất có bà Đào Thị R và bà Đào Thị N đã làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích đất được chia, nên cần phải xác định đây là việc bà T1 lập giấy tặng cho quyền sử dụng đất cho các con và cháu. Phần diện tích đất còn lại giao cho ông Đào Văn D trồng cây và ở sau này với điều kiện khi bà T1 mất đi ông D mới được sử dụng là di sản thừa kế. Như vậy, những người được chia đất nêu trên có quyền lợi độc lập với nhau. Khi phát sinh tranh chấp, ông B và ông D có đơn khởi kiện đối với bà R thì ông B, ông D là nguyên đơn, bà R là bị đơn, những người còn lại bao gồm bà N1, bà Y, bà N, ông C, bà L nếu có yêu cầu Tòa án xem xét buộc bà R có trách nhiệm tách thửa đối với diện tích của hộ được chia thì họ là Người có quyền và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập và phải có đơn yêu cầu để Tòa án thụ lý để giải quyết. Tòa cấp sơ thẩm không hướng dẫn những người này làm đơn yêu cầu nhưng vẫn giải quyết vụ án và buộc bà R có nghĩa vụ phân chia quyền sử dụng đất cho những người này là không đúng, vượt quá yêu cầu của đương sự.

(ii) Các đương sự đều thống nhất việc bà T1 lập hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất trên cho bà R vào ngày 26/7/2013 để giúp bà R vay tiền ngân hàng, diện tích đất bà T1 tặng cho bà R là 10.832,2m2 bao gồm cả các diện tích đất bà T1 đã chia giao cho các con, cháu từ năm 2006. Căn cứ vào hợp đồng trên, bà R đã làm các thủ tục và được UBND huyện B cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Nay bà R chỉ đồng ý tách quyền sử dụng đất cho những người được chia đất, riêng phần diện tích đất còn lại bà không đồng ý giao cho ông D. Như vậy, tính đến thời điểm Tòa án thụ lý giải quyết thì diện tích đất trên được định đoạt bằng 2(hai) giao dịch, và cả hai giao dịch này hiện vẫn đang tồn tại, Nay các bên đang có tranh chấp đối với bản di chúc và hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa bà T1 và bà R, khi giải quyết vụ án, cần phải xem xét tính pháp lý của cả hai giao dịch trên, nếu công nhận quyền sử dụng đất cho những người được chia đất như trong Bản di chúc thì phải tuyên hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa bà T1 và bà R là vô hiệu. Cấp sơ thẩm cho rằng nguyên đơn có ý kiến không cần hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa bà T1 và bà R và UBND xã T không còn lưu giữ hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất này để không xem xét giải quyết là không đúng quy định vì bản Hợp đồng này đã được Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai cung cấp (BL 324).

(iii) Theo bản di chúc ngày 02/5/2006 thì thời điểm đó diện tích đất của bà T1 là là 13.532m2 (trong đó có 400m2 đất thổ cư). Đến ngày ngày 19/9/2006, bà T1 được cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AE 644439, đất đứng tên hộ bà Trần Thị T1, diện tích đất còn lại 12.001m2. Đến ngày 08/7/2013, được cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BN076052 đứng tên hộ bà Trần Thị T1, diện tích đất còn lại 10.832,2m2. Khi giải quyết lại vụ án cấp sơ thẩm cũng chưa làm việc với các cơ quan chức năng để xác định rõ lý do diện tích đất bị giảm để giải quyết vụ án.

(iv) Kết quả đo đạc diện tích đất các bên đang sử dụng ngày 29/7/2022 không được thẩm định nên có sai sót, không đúng với thực tế. Cụ thể, kết quả đo đạc xác định ông B đang sử dụng 02 thửa đất, gồm thửa số 29B có diện tích 812,5m2 và thửa 29E diện tích 250.0m2 (BL 444), kết quả này là không đúng, vì thực tế ông B chỉ sử dụng thửa 29E. Cấp sơ thẩm không phát hiện ra sai sót này nhưng vẫn tuyên ông B được sử dụng thửa 29E, còn ông C được sử dụng thửa 29B là không đúng và không thể thi hành án được.

(v) Ngoài các nội dung trên, thì việc xác định những người thừa kế của ông Đào Văn M cũng chưa được cấp sơ thẩm thu thập đầy đủ các tài liệu, chứng cứ để chứng minh họ là người thừa kế theo quy định của pháp luật. Đồng thời trong bản án chỉ xác định bà Y là người thừa kế của ông M mà không xác định các con ông M là đồng thừa kế là thiếu sót.

Từ những phân tích và nhận định nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, việc xác minh, thu thập chứng cứ và giải quyết vụ án không đầy đủ dẫn đến việc giải quyết vụ án không triệt để, cấp phúc thẩm không thể khắc phục được vì vậy cần hủy bản án sơ thẩm để giải quyết lại nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự nên kháng các của bị đơn bà R được chấp nhận 1 phần.

(vi) Đối với phần tranh chấp hợp đồng vay tài sản: Hội đồng xét xử xét thấy việc giải quyết lại vụ án có liên quan đến việc xem xét lại tính hợp pháp của hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa bà T1 và bà Đào Thị R và tính hợp pháp của giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BN 076326, mà hiện nay bà L Thị T2 đang giữ. Do vậy để giải quyết vụ án triệt để Hội đồng xét xử xét thấy cần hủy phần quyền định thỏa thuận giữa bà Đào Thị R và bà L Thị T2 về hợp đồng vay tài sản để Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại theo quy định pháp luật.

Bài viết liên quan

Góp ý