Bản án dân sự phúc thẩm số 31/2020/DS-PT ngày 27/02/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk về hủy di chúc đã công chứng và đòi tài sản

Nội dung hủy án:

(i) Ngoài yêu cầu hủy di chúc, đòi tài sản, bà Thái Thị T còn yêu cầu Tòa án hủy các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất, hợp đồng mua bán tài sản đấu giá, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng Tòa án cấp sơ thẩm chỉ xác định quan hệ tranh chấp là “Hủy di chúc đã công chứng và đòi tài sản” là thiếu sót, chưa đầy đủ.

(ii) Trong đơn khởi kiện bổ sung ngày 04/01/2016, nguyên đơn đã cung cấp địa chỉ mới của ông Trần Quốc V, bà Lê Thị Mỹ H tại địa chỉ đường N, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không tiến hành tống đạt văn bản, hoặc xác minh tại địa chỉ trên mà tiến hành niêm yết văn bản tại địa chỉ cũ; đồng thời, Toà án cấp sơ thẩm không xác minh nơi cư trú tại Công an phường mà xác minh thông qua UBND phường là chưa đầy đủ, vi phạm khoản 5 Điều 152 Bộ luật tố tụng dân sự 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011), khoản 2 Điều 5 Nghị định 31/2014/NĐ-CP ngày 18/4/2014 quy định chi tiết thi hành một số điều và biện pháp thi hành Luật Cư trú. Tuy nhiên, ông V bà H đã có đơn từ chối tham gia các phiên toà phiên họp, đã nhận bản án sơ thẩm và không có kháng cáo nên Toà án cấp sơ thẩm cần rút kinh nghiệm.

(iii) Bà Thái Thị T khởi kiện đòi nhà và đất thuộc thửa đất số 67, tờ bản đồ 20, diện tích 296,6m2, địa chỉ đường P, phường L, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Hiện nay, thửa đất trên đã được tách thành 02 thửa: thửa đất số 67, tờ bản đồ số 20, diện tích 152,9m2 thuộc quyền sử dụng của bà Phạm Thị L; thửa đất số 166, tờ bản đồ số 20, diện tích 143,7m2 thuộc quyền sử dụng của chị Hoàng Thị Thuý D. Tại Biên bản định giá tài sản ngày 16/01/2015 (BL 70 - 71), biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 09/3/2016 (BL 166-167) thể hiện tại thửa đất tranh chấp nhà chia thành 03 ki ốt đang cho thuê, móng xây đá hộc, tường xây gạch, lát gạch ceramic, mái lợp tôn, trần nhựa. Tại chứng thư thẩm định giá ngày 20/3/2018 (BL 263-275) thể hiện thời điểm xây dựng nhà đã lâu, có một phần nhà mới được sửa chữa, nâng cấp lại. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm không tiến hành xác minh, thu thập các tài liệu, chứng cứ về sự tồn tại của căn nhà tại thời điểm mở thừa kế, cũng như nguồn gốc, thời điểm xây dựng, chủ sở hữu của căn nhà hiện tại, mà đã nhận định ngôi nhà cũ của ông H không còn tồn tại, tài sản định giá là tài sản của những người thuê đất để kinh doanh là không có cơ sở. Mặt khác, người thuê nhà Phạm Thị H có bản tự khai nhưng Toà án cấp sơ thẩm không làm rõ về quyền sở hữu đối với căn nhà và không đưa người thuê các ki ốt còn lại vào tham gia tố tụng để làm rõ các vấn đề trên. Đây là các thiếu sót làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn và những người thuê nhà.

(iv) Về việc định giá tài sản tranh chấp:

Ngày 16/01/2015, Toà án cấp sơ thẩm đã thành lập hội đồng định giá tài sản đối với nhà và đất tranh chấp. Ngày 18/01/2018, người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn có đơn đề nghị định giá lại toàn bộ tài sản vì thời điểm định giá lần đầu đã lâu. Tại Công văn số 53/CV-TA ngày 31/01/2018, Toà án cấp sơ thẩm cho rằng đương sự không đồng ý với giá mà Toà án đã thành lập hội đồng định giá ngày 16/01/2015 và yêu cầu thẩm định giá lại nên Toà án đề nghị Công ty Thẩm định giá M – Chi nhánh B thẩm định tài sản.

Theo quy định tại khoản 2, khoản 3, khoản 5 Điều 104 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 thì:

“2. Các đương sự có quyền thỏa thuận lựa chọn tổ chức thẩm định giá tài sản để thực hiện việc thẩm định giá tài sản và cung cấp kết quả thẩm định giá cho Tòa án.

3. Tòa án ra quyết định định giá tài sản và thành lập Hội đồng định giá khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Theo yêu cầu của một hoặc các bên đương sự;

b) Các đương sự không thỏa thuận lựa chọn tổ chức thẩm định giá tài sản hoặc đưa ra giá tài sản khác nhau hoặc không thỏa thuận được giá tài sản;

c) Các bên thỏa thuận với nhau hoặc với tổ chức thẩm định giá tài sản theo mức giá thấp so với giá thị trường nơi có tài sản định giá tại thời điểm định giá nhằm trốn tránh nghĩa vụ với Nhà nước hoặc người thứ ba hoặc có căn cứ cho thấy tổ chức thẩm định giá tài sản đã vi phạm pháp luật khi thẩm định giá.

5. Việc định giá lại tài sản được thực hiện trong trường hợp có căn cứ cho rằng kết quả định giá lần đầu không chính xác hoặc không phù hợp với giá thị trường nơi có tài sản định giá tại thời điểm giải quyết vụ án dân sự.”

Như vậy, việc thẩm định giá tài sản thông qua tổ chức thẩm định giá tài sản chỉ do các đương sự thoả thuận, Toà án chỉ được định giá tài sản thông qua Hội đồng định giá quy định tại khoản 4 Điều 104 Bộ luật tố tụng dân sự 2015. Đồng thời, người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn chỉ yêu cầu Toà án định giá lại do kết quả định giá lần đầu năm 2015 không phù hợp với giá thị trường năm 2018. Việc Toà án cấp sơ thẩm yêu cầu tổ chức thẩm định giá tài sản tiến hành định giá tài sản là vi phạm khoản 3 Điều 104 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, là xâm phạm đến quyền lợi của các đương sự.

Bài viết liên quan

Góp ý