Bản án dân sự phúc thẩm số 540/2018/DS-PT ngày 30/5/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về tranh chấp hợp đồng mua bán nhà, hủy di chúc, liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu và hủy Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu đất

Nội dung hủy án:

(i) Đối với yêu cầu độc lập của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: ông Lâm Anh L, bà Lâm A, bà Lý Lệ H yêu cầu Tòa án tuyên hủy tờ di chúc ngày 16/4/2002 đã được Ủy ban nhân dân Phường H, Quận S chứng thực ngày 26/4/2002 với lý do người lập di chúc bị bệnh ung thư giai đoạn cuối, sức khỏe kém, hay bệnh, bà S không biết đọc, viết tiếng Việt nhưng di chúc lập không có người làm chứng; bản khám sức khỏe vượt quá thời gian quy định nên việc lập di chúc trên không đúng với ý chí tự nguyện của bà S.

Hội đồng xét xử nhận thấy, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cho rằng bà S không biết đọc, không biết viết tiếng Việt. Ngoài ra các ông bà còn cho rằng việc lập di chúc của bà Lâm Lên S được Ủy ban nhân dân Phường H, Quận S công chứng, chứng thực chưa đúng theo quy định. Căn cứ theo quy định tại Điều 655, Điều 661 Bộ luật Dân sự năm 1995; Nghị định số: 75/2000/NĐ-CP ngày 08/12/2000 về công chứng, chứng thực và hướng dẫn tại Thông tư 03/2001/TT-TP-CC của Bộ Tư pháp ngày 14/3/2001 hướng dẫn thi hành Nghị định 75/2000/NĐ-CP ngày 08/12/2000 thì việc khám sức khỏe khi lập di chúc là không bắt buộc, người thực hiện công chứng, chứng thực phải xác định trạng thái tinh thần của người lập di chúc, trong trường hợp cần thiết thì người thực hiện công chứng có thể yêu cầu người lập di chúc xuất trình giấy khám sức khỏe. Đồng thời, việc có người làm chứng khi lập di chúc chỉ thực hiện khi người lập di chúc không biết đọc, không biết viết, không ký hoặc không điểm chỉ được thì cần phải có người làm chứng. Việc điểm chỉ có thể thực hiện đồng thời với việc ký hoặc việc điểm chỉ được thay thế cho việc ký nếu người yêu cầu công chứng không ký được do khuyết tật hoặc không biết ký. Việc xác định di chúc ngày 16/4/2002 có hợp pháp hay không là mấu chốt để giải quyết yêu cầu của các bên đương sự. Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan cho rằng bà S không biết chữ và ngoài lời khai thì có cung cấp cho Tòa án ba tờ khai đăng ký tạm trú của bà S là Hộ trưởng vào thời điểm năm 1992, 1994, trong ba tờ khai này bà S chỉ vẽ một dấu cộng ở phần ký, còn tên là do bà Hoa ghi. Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ vào ba tờ khai nêu trên làm căn cứ xác định bà Lâm Lên S không biết chữ, trong khi người đại diện theo ủy quyền của bị đơn cho rằng bà S là người biết đọc, biết viết tiếng Việt vì bà đã từng thực hiện giao dịch đối với nhiều căn nhà. Ngoài ra, đại diện Ủy ban nhân dân Phường H, Quận S cho rằng việc chứng thực di chúc nói trên Ủy ban nhân dân đã làm đúng quy định pháp luật. Bà Lâm Lên S biết đọc, đã tự nhờ người đánh máy bên ngoài và đến Ủy ban yêu cầu chứng thực. Khi đến Ủy ban bà đã đọc rõ, thể hiện đúng ý chí của bà và Chủ tịch Ủy ban đã công bố lại nội dung di chúc, một lần nữa đúng ý chí của bà nên Chủ tịch đã chứng nhận di chúc nói trên. Đối chiếu với các quy định pháp luật về việc lập di chúc như Điều 661 Luật Dân sự năm 1995, nhận thấy việc lập di chúc là hoàn toàn đúng. Do đó, căn cứ xác định việc Ủy ban nhân dân Phường H, Quận S công chứng chứng thực không đúng theo quy định và Tòa án cấp sơ thẩm tuyên hủy di chúc của bà Lâm Lên S là chưa đủ cơ sở vững chắc. Việc thu thập chứng cứ của Tòa án cấp sơ thẩm là chưa đầy đủ và toàn diện, Tòa án cấp sơ thẩm cần tiến hành thu thập thêm chứng cứ và đối chất làm rõ lời trình bày có sự mâu thuẫn của các đương sự trong vụ án.

(ii) Mặt khác, do hủy di chúc của bà Lâm Lên S nên Tòa án cấp sơ thẩm tuyên hủy Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số: 3566/2003 ngày 26/12/2003 do Ủy ban nhân dân Quận S cấp cho bà Lý Lệ Q. Đồng thời tuyên vô hiệu đối với Hợp đồng mua bán nhà ở và chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở số 015194 ngày 08/7/2014 giữa bà Huỳnh Đoan T và bà Lý Lệ Q lập tại Văn phòng công chứng G. Theo quy định tại Điều 127 Bộ luật dân sự 2005 thì: “Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện quy định tại Điều 122 của Bộ luật này thì vô hiệu”. Các điều kiện quy định tại Điều 122 bao gồm: Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự; Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội; Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố vô hiệu đối với Hợp đồng mua bán nhà ở và chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở số 015194 ngày 08/7/2014 và áp dụng quy định tại Điều 137 Bộ luật dân sự 2005 về giao dịch dân sự vô hiệu buộc các bên phải khôi phục tình trạng ban đầu và hoàn trả cho nhau những gì đã nhận là chưa đúng quy định của pháp luật. Bởi lẽ, theo Điều 137 Bộ luật dân sự cũng quy định bên nào có lỗi làm cho hợp đồng vô hiệu phải bồi thường. Tại thời điểm giao kết hợp đồng, bà Q đã được Ủy ban nhân dân Quận S cấp Giấy chứng nhận hợp pháp, bà T là người mua ngay tình, việc mua bán đã hoàn thành xong các thủ tục theo đúng quy định của pháp luật từ năm 2014 đến nay. Tòa án cấp sơ thẩm cần định giá tài sản tranh chấp, xác định lỗi của các bên và tính toán thiệt hại, giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu trong trường hợp xác định di chúc của bà S bị vô hiệu, mới đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự tham gia giao dịch.

(iii) Từ những phân tích nêu trên và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy Tòa án cấp sơ thẩm chưa thu thập đầy đủ chứng cứ mà cấp phúc thẩm không thể thực hiện bổ sung được, cần hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ về Tòa án cấp sơ thẩm xét xử lại vụ án theo quy định pháp luật.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị đơn xuất trình chứng cứ mới là Giấy xác nhận của ông Lê Văn T xác nhận bà Lâm Lên S có thể nghe được, nói được tiếng Việt Nam. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Ủy ban nhân dân Phường H, Quận S cung cấp bản sao sổ bộ năm 2002 thể hiện dấu điểm chỉ của bà S trong sổ bộ ngày 26/4/2002 vì cho rằng bản án sơ thẩm nhận định việc bà Lâm Lên S không ký hay điểm chỉ vào ngày Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường chứng thực là không chính xác. Khi tiến hành giải quyết lại vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm cần tiến hành xác minh các chứng cứ mới nêu trên và thu thập thêm chứng cứ làm căn cứ giải quyết vụ án.

Bài viết liên quan

Góp ý