Bản án dân sự phúc thẩm số 318/2022/DS-PT ngày 16/12/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang về tranh chấp thừa kế theo di chúc, di sản dùng vào việc thờ cúng

Nội dung hủy án:

Đối với yêu cầu ông Nguyễn Thành Đ khai bổ sung tại cơ quan có thẩm quyền về nội dung hạn chế của người sử dụng đất; đồng thời yêu cầu kiến nghị Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Tiền Giang thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản khác gắn liền với đất số vào sổ CS 07433 ngày 16/5/2019 cấp cho Nguyễn Thành Đ để điều chỉnh, bổ sung nội dung hạn chế quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Thành Đ, theo ý chí định đoạt của cụ Nguyễn Văn B1 và cụ Nguyễn Thị X.

Xét thấy, theo tờ di chúc do cụ B1 và cụ X lập ngày 22/6/2004, nội dung có đoạn “…số còn lại gồm đất thổ và đất quả là 2.206m2 (đất thổ 200m2), đất ruộng 29 sào (2.900m2), một cái nhà tường lợp tol thiết lót gạch bông và một số đồ đạc trang T2 trong nhà thuộc về vợ chồng tôi và con trai út tên Nguyễn Thành Đ quản lý và sử dụng. Sau khi vợ chồng tôi qua đời thì số tài sản còn lại của vợ chồng tôi giao cho Đại thừa hưởng, quản lý và lo việc cúng giỗ ông bà, không được sang bán….”. Như vậy, cụ B1 và cụ X đã xác định số tài sản còn lại là “đất thổ và đất quả là 2.206m2 (đất thổ 200m2), đất ruộng 29 sào (2.900m2), một cái nhà tường lợp tol thiết lót gạch bông và một số đồ đạc trang T2 trong nhà” là tài sản thuộc quyền quản lý và sử dụng của hai cụ và ông Nguyễn Thành Đ, đây được xem là tài sản thuộc sở hữu chung của 03 người. Sau khi cụ B1 chết năm 2010, đối với phần đất ruộng qua đo đạc thực tế có diện tích là 2.657,1m2 các đồng thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ B1 đã đến Ủy ban nhân dân huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang lập văn bản phân chia tài sản thừa kế thống nhất cho ông Nguyễn Thành Đ được nhận thừa kế toàn bộ diện tích đất trên và ông Đ đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với toàn bộ diện tích đất trên vào ngày 23/11/2011. Như vậy phần diện tích đất còn lại theo di chúc là 2.206m2 (qua đo đạc thực tế là 2132m2) đất thổ quả và một cái nhà tường lợp tol thiết lót gạch bông và một số đồ đạc trang T2 trong nhà vẫn là tài sản chung của cụ B1, cụ X và ông Đ, tuy nhiên theo nguyện vọng của cụ B1 và cụ X sau khi hai cụ qua đời số tài sản còn lại của hai cụ giao cho ông Đ thừa hưởng, quản lý không được sang bán. Như vậy phần tài sản của cụ B1 và cụ X là di sản giao cho ông Đ được thừa hưởng, quản lý nhưng không được quyền định đoạt. Theo nội dung văn bản số 702/STNMT-VPĐKĐĐ ngày 21/02/2020 của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Tiền Giang xác định “Về trình tự thủ tục, hồ sơ thừa kế quyền sử dụng đất từ ông Nguyễn Văn B1 và bà Nguyễn Thị X sang cho ông Nguyễn Thành Đ được Sở Tài nguyên và Môi trường thực hiện theo quy định tại Điều 79 Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ. Tuy nhiên qua xem xét nội dung khởi kiện của nguyên đơn, các giấy tờ được Tòa án kèm theo thông báo, đồng thời liên kết với hồ sơ cấp giấy chứng nhận của ông Đ, Sở Tài nguyên và Môi trường nhận thấy Giấy chứng nhận đã cấp cho ông Nguyễn Thành Đ cần bổ sung nội dung hạn chế của người sử dụng đất theo đúng ý nguyện của người để lại di sản cho phù hợp”. Tuy nhiên việc bà Tươi yêu cầu ông Đ khai bổ sung về nội dung hạn chế của người sử dụng đất đối với toàn bộ thửa đất số 320, tờ bản đồ số 9 diện tích 2132m2 và yêu cầu kiến nghị Sở tài nguyên và Môi trường thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số vào sổ CS 07433 ngày 16/5/2019 cấp cho ông Đ để điều chỉnh, bổ sung nội dung hạn chế quyền sử dụng đất của ông Đ theo ý chí định đoạt của cụ B1 và cụ X là chưa hoàn toàn phù hợp. Bởi lẽ trong phần tài sản này là có phần tài sản của ông Đ. Việc Tòa án cấp sơ thẩm xử không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện này của bà Tươi là chưa xem xét, đánh giá toàn diện các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự.

Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 21/11/2022, người đại diện ủy quyền của bà Tươi có yêu cầu Hội đồng xét xử tạm ngừng phiên tòa và yêu cầu Tòa án tiến hành đo đạc, xem xét thẩm định đối với thửa đất số 320 và tài sản trên đất là căn nhà của bà Ánh và ông Sơn để hai bên thỏa thuận nhưng đến ngày 22/11/2022 bà Tươi có văn bản không đồng ý thỏa thuận, giữ nguyên yêu cầu kháng cáo là hạn chế toàn bộ thửa đất số 320, không yêu cầu Tòa án đo đạc, thẩm định.

Tuy nhiên cấp sơ thẩm chưa xác định phần tài sản là di sản của cụ B1 và cụ X trong phần tài sản còn lại theo di chúc, trên thửa đất số 320, diện tích 2.132m2 có căn nhà của bà Nguyễn Thị A và nhà của ông Nguyễn Văn S nhưng cấp sơ thẩm chưa tiến hành xem xét, thẩm định và định giá tài sản và cũng chưa có ý kiến của những người này đối với tài sản của họ trên thửa đất có tranh chấp, hơn nữa hàng thừa kế của cụ B1 và cụ X còn có bà Nguyễn Thị Hường nhưng cấp sơ thẩm chưa đưa vào tham gia tố tụng là thiếu sót, cấp phúc thẩm không thể khắc phục được. Nhằm đảm bảo hai cấp xét xử cần hủy án sơ thẩm để cấp sơ thẩm xét xử lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.