Nội dung hủy án:
(i) Xét tính hợp pháp của Di chúc do cụ Trần Thị M lập lần thứ nhất ngày 26/4/2006, được UBND phường L xác nhận ngày 16/6/2008:
Di chúc thể hiện nội dung: Tên tôi là Trần Thị M, hiện nay tôi đã già và yếu nên không biết sống chết lúc nào, để cho các con tôi sau này không có sự va chạm và tranh chấp với nhau. Hiện tại lô đất tôi đang ở có diện tích 270m2 (tại Khu X, phường L, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc) tôi chia ra như sau: Con trai tôi là Hoàng Văn Q được hưởng ¾ lô đất bằng 200m2; con gái tôi là Hoàng Thị P được hưởng ¼ lô đất bằng 70m2. Tôi cho con gái tôi ở phần mặt bằng đằng sau giáp nhà ông K1, bên cạnh giáp cổng đi nhà ông K2, đằng trước giáp đường đi liên xóm. Tôi viết di chúc này để lại sau khi tôi mất để làm bằng chứng cho các con tôi sau này. Vậy nhờ chính quyền địa phương thực hiện theo di chúc của tôi. Lúc này tôi vẫn còn minh mẫn và đọc cho chị Nguyễn Thị F1 cùng sống tại Khu X viết lại hộ tôi bản di chúc này vì tôi không biết chữ.
Di chúc được lập ngày 26/4/2006. Phía dưới di chúc thể hiện về việc cam kết của người viết hộ bà Nguyễn Thị F1 chứng nhận những lời cụ M đọc cho bà F1 viết là đúng sự thực, không ghi thêm, bớt gì. Đồng thời thể hiện có người chứng kiến về việc cụ M đọc cho bà F1 viết di chúc là đúng của ông Nguyễn Đức U1 và ông Phạm Như N2. Di chúc có điểm chỉ của người lập di chúc là cụ M.
Bản di chúc trên thể hiện được UBND phường L xác nhận nội dung: Bản di chúc của bà Trần Thị M được lập tại phường L. Điểm chỉ xác nhận tại trụ sở UBND phường L ngày 13/6/2008. Có chữ ký của cán bộ tư pháp là ông Nguyễn Trung T2 và có xác nhận của ông Trần Đình T2 – Phó Chủ tịch UBND phường ngày 16/6/2008.
Do cụ M là người không biết chữ, nên căn cứ theo khoản 3 Điều 652 Bộ luật dân sự năm 2005 (khoản 3 Điều 630 Bộ luật Dân sự năm 2015) quy định: Di chúc hợp pháp của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.
Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm không yêu cầu đương sự cung cấp bản di chúc gốc, đồng thời không lấy lời khai của người viết hộ di chúc là bà Nguyễn Thị F1, người chứng kiến cụ M lập di chúc là ông Nguyễn Đức U1, ông Phạm Như N2, xác minh làm rõ về việc xác nhận của UBND phường L vào bản di chúc cũng như việc lưu giữ bản di chúc trên trên để xem xét về ý chí của cụ M khi lập di chúc, về tính hợp pháp của bản di chúc, từ đó cấp sơ thẩm đã nhận định bản di chúc do cụ M lập không đúng thủ tục và không tuân theo quy định tại khoản 1 Điều 658 BLDS năm 2005 (quy định về thủ tục lập di chúc tại cơ quan công chứng hoặc Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn) là chưa thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để đánh giá tính hợp pháp của bản di chúc, đồng thời áp dụng chưa đúng quy định của pháp luật đối với việc lập di chúc của cụ M.
(ii) Xét tính hợp pháp của Di chúc do cụ Trần Thị M lập ngày 19/3/2012 tại Văn phòng Công chứng I (nay là Văn Phòng Công chứng Đ):
Theo Di chúc trên có nội dung: Tại Văn phòng Công chứng I, tôi ký tên dưới đây là bà Nguyễn Thị M… trong trạng thái tinh thần minh mẫn, sáng suốt theo Giấy khám sức khỏe do Bệnh viện Đa khoa thị xã D, tỉnh Bình Dương cấp ngày 08/02/2012, tôi lập di chúc này để lại tài sản là toàn bộ quyền sử dụng đất tại thửa đất số 94, tờ bản đồ số 51, địa chỉ thửa đất tại Khu X, phường L, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc có diện tích là 270m2… để lại cho bà Lê Thị H …. Ngoài ra không để lại di sản thừa kế nêu trên cho bất kỳ ai. Để làm chứng cho việc lập di chúc, tôi có mời người làm chứng là bà Lê Thị Thanh T1… Người làm chứng trên là do tôi mời đến … Tôi đã được nghe công chứng viên đọc lại nội dung di chúc này và xác định di chúc đã được ghi chép chính xác, thể hiện đúng theo ý chí và nguyện vọng của tôi, tôi đồng ý toàn bộ nội dung ghi trong di chúc và ký tên, điểm chỉ vào di chúc này trước sự có mặt của Công chứng viên.
Phía dưới nội dung lập di chúc có điểm chỉ của cụ M và thể hiện người làm chứng Lê Thị Thanh T1 chứng kiến công chứng viên đọc lại nội dung di chúc cho cụ Trần Thị M nghe, đồng ý toàn bộ nội dung ghi trong di chúc và điểm chỉ vào di chúc (Bút lục 316-317) .
Tuy nhiên, theo hồ sơ đề nghị công chứng đối với di chúc của cụ M thể hiện: Đối với Phiếu khám sức khỏe ngày 08/02/2012 – là tài liệu Văn phòng Công chứng I căn cứ để xác định tình trạng sức khỏe, trạng thái tinh thần minh mẫn, sáng suốt của cụ M, thì Phiếu khám sức khỏe trên thể hiện đơn vị ban hành là Trung tâm Giám định Y khoa Pháp Y – Sở Y tế Bình Dương và có đóng dấu treo là Bệnh viện Đa khoa thị xã D, nhưng phía dưới thể hiện Bác sỹ Kết luận thuộc Khoa Khám bệnh – Hồi sức cấp cứu của Bệnh viện Đa khoa thị xã D; đồng thời có chữ ký của Giám đốc và đóng dấu của Bệnh viện Đa khoa thị xã D (Bút lục 308). Tòa án cấp sơ thẩm chưa xác minh làm rõ đối với Bệnh viện Đa khoa thị xã D hay Trung tâm Giám định Y khoa Pháp Y hoặc Sở Y tế đối với việc mâu thuẫn trong việc ban hành Phiếu khám sức khỏe cho cụ M nêu trên để từ đó làm cơ sở đánh giá tính khách quan của Phiếu khám sức khỏe cho cụ M.
Ngoài ra, đối với chị Lê Thị Thanh T1 là người làm chứng trong khi cụ M lập di chúc tại Văn phòng Công chứng I thể hiện có sự mâu thuẫn như: Tại Di chúc lập ngày 19/3/2012 thể hiện người làm chứng chị Lê Thị Thanh T1 do cụ M mời đến (Bút lục 316; 317); tại biên bản lấy lời khai ngày 06/5/2016 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện L1, tỉnh Lâm Đồng, chị Lê Thị Thanh T1 lại trình bày chị làm chứng cho việc cụ M lập di chúc tại Văn phòng Công chứng I là do ngày 19/3/2012 chị đến Văn phòng Công chứng I cùng bạn tên U1 (không nhớ rõ họ và địa chỉ của anh U1) làm môi giới đất đai để công chứng Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, chị đã chứng kiến cụ M tuyên bố nội dung di chúc để Văn phòng công chứng ghi lại, sau đó Công chứng viên đọc lại nội dung di chúc cho cụ M nghe, cụ M tự nguyện lăn tăy vào di chúc, chị ký và điểm chỉ vào di chúc (Bút lục 94). Tại biên bản xác minh ngày 10/9/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc tại Văn phòng Công chứng I thì Văn phòng Công chứng I cung cấp: Chị Lê Thị Thanh T1 – người làm chứng trong di chúc ngày 19/3/2012 do cụ M lập tại Văn phòng Công chứng I là Kế toán làm việc tại Văn phòng Công chứng I vào năm 2012. Do cụ M, bà H không mời được người làm chứng nên Văn phòng đã chỉ định cô Tâm làm chứng cho cụ M và bà H (Bút lục 220).
Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn đề nghị xác định tính khách quan của người làm chứng là chị Lê Thị Thanh T1 đối với di chúc của cụ M lập ngày 19/3/2012 do có những mâu thuẫn nêu trên, đồng thời nhìn mắt thường thấy rằng chữ viết và chữ ký của chị T1 trong các bản di chúc lập tại Văn phòng Công chứng I so với chữ ký và chữ viết của chị T1 trong Biên bản lấy lời khai ngày 06/5/2016 không giống nhau. Vì vậy, để đánh giá tính khách quan của người làm chứng trong việc lập di chúc của cụ M, từ đó làm căn cứ xác định tính hợp pháp của di chúc được lập ngày 19/3/2012 và làm căn cứ cho việc giải quyết vụ án, xét thấy việc đề nghị giám định chữ ký, chữ viết của chị T1 trong di chúc lập ngày 19/3/2012 với chữ ký, chữ viết của chị T1 trong biên bản lấy lời khai ngày 06/5/2016 theo đề nghị của bị đơn là cần thiết.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn cũng đồng ý đề nghị giám định chữ ký, chữ viết của chị T1 theo quan điểm của bị đơn và cung cấp bản di chúc ngày 19/3/2012 có chữ ký gốc của chị T1 cho Tòa án để làm tài liệu cho việc trưng cầu giám định. Do có những vi phạm và tình tiết mới nêu trên, mà tại phiên tòa phúc thẩm không thể khắc phục, bổ sung được và để bảo đảm quyền kháng cáo của đương sự cần hủy bản án sơ thẩm, giao hồ sơ cho Tòa án cấp sơ thẩm xét xử lại.