Bản án dân sự phúc thẩm số 207/2023/DS-PT ngày 07/12/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu về tranh chấp hợp đồng đặt cọc

Nội dung hủy án 

Đối với yêu cầu trả lại tiền đặt cọc: Hợp đồng đặt cọc là hợp đồng độc lập nhằm bảo đảm giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa các bên trong khoảng thời gian nhất định để tiến hành ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Tại thời điểm giao kết hợp đồng đặt cọc, ông Nguyễn Bảo Q không phải là chủ sử dụng thửa đất nhưng các bên chỉ ký kết hợp đồng đặt cọc nhằm đảm bảo đến ngày 07/4/2022 sẽ ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với bà Nguyễn Thị Kim O. Tại thời điểm đặt cọc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên ông Nguyễn Đình Đ và bà Nguyễn Thị Lan H2, tuy nhiên, ông Đ và bà H2 đã ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với ông Phạm Văn H và bà Phạm Thị Lệ H1 vào ngày 10/02/2022 trước ngày ký hợp đồng đặt cọc giữa ông Q và bà O ngày 07/3/2022. Ông H, bà H1 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 24/3/2022 trước ngày ký công chứng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo thỏa thuận giữa bà O và ông Q là ngày 07/4/2022. Ông H và bà H1 xác nhận việc ông Q giao dịch đặt cọc với bà O đã có sự đồng ý của ông H và bà H1. Ông H, bà H1 đồng ý ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với bà O theo nội dung thỏa thuận giữa bà O và ông Q hoặc ông H, bà H1 sẽ ủy quyền cho ông Q ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với bà O theo thời hạn đã thỏa thuận tại hợp đồng đặt cọc ngày 07/3/2022 giữa bà O và ông Q. Việc ông Q không đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khi chưa đến thời điểm ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không ảnh hưởng đến việc ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với bà O. Trường hợp đến ngày ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ông Q không thực hiện được việc ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà O thì ông Q mới là người vi phạm hợp đồng. Hợp đồng đặt cọc ngày 07/3/2022 giữa bà O và ông Q giao kết trên cơ sở tự nguyện, tại thời điểm đặt cọc bà O và ông Q có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, hình thức và nội dung của hợp đồng đặt cọc không vi phạm các quy định của pháp luật. Do đó, hợp đồng đặt cọc ngày 07/3/2022 giữa bà O và ông Q có hiệu lực pháp luật.

Việc không thực hiện được việc ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là do bà Nguyễn Thị Kim O không thực hiện ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo thỏa thuận tại hợp đồng đặt cọc ngày 07/3/2022 giữa bà ( và ông Nguyễn Bảo Q. Việc bà O không thực hiện ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo thỏa thuận thì bà O phải chịu mất số tiền đã đặt cọc theo nội dung các bên thỏa thuận trong hợp đồng đặt cọc. Do vậy, không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Kim O về việc buộc ông Nguyễn Bảo Q phải trả lại cho bà Nguyễn Thị Kim O số tiền đặt cọc 200.000.000 đồng. Tuy nhiên tại phiên tòa phúc thẩm, ông Nguyễn Bảo Q tự nguyện trả lại cho bà Nguyễn Thị Kim O số tiền 50.000.000 đồng, đây là sự tự nguyện của ông Nguyễn Bảo Q nên ghi nhận.

Án sơ thẩm xác định ông Nguyễn Bảo Q không phải là chủ sử dụng đất nên không có quyền ký hợp đồng đặt cọc với bà Nguyễn Thị Kim O để từ đó xác định giao dịch đặt cọc giữa ông Q và bà O là vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật là không có cơ sở. Chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Bảo Q. Ghi nhận sự tự nguyện của ông Nguyễn Bảo Q về việc đồng ý trả lại cho bà Nguyễn Thị Kim O số tiền 50.000.000 đồng. Sửa bản án sơ thẩm.

Bài viết liên quan

Góp ý