
Việc giao nộp chứng cứ và bảo quản chứng cứ trong tố tụng cạnh tranh được thực hiện như thế nào?
Luật sư cho tôi hỏi: Tôi là chủ một cửa hàng phân phối hàng điện tử. Gần đây, tôi phát hiện một công ty lớn trong ngành có hành vi ép buộc các nhà cung cấp không bán hàng cho tôi, khiến việc kinh doanh của tôi bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Tôi đã thu thập một số tài liệu, hợp đồng, tin nhắn và email có nội dung thể hiện hành vi này. Tuy nhiên, tôi băn khoăn không biết trong quá trình tố tụng cạnh tranh, tôi phải giao nộp các chứng cứ này cho ai, theo hình thức nào? Và khi đã nộp thì việc bảo quản, lưu giữ chứng cứ sẽ được thực hiện ra sao để đảm bảo an toàn, tránh bị mất mát hoặc bị sửa đổi. Mong luật sư tư vấn giúp tôi, xin cảm ơn.
MỤC LỤC
1. Việc giao nộp chứng cứ trong tố tụng cạnh tranh được quy định như thế nào?
2. Việc bảo quản chứng cứ trong tố tụng cạnh tranh được thực hiện ra sao?
Trả lời:
1. Việc giao nộp chứng cứ trong tố tụng cạnh tranh được quy định như thế nào?
Trong tố tụng cạnh tranh, chứng cứ là yếu tố quan trọng giúp xác định sự thật khách quan của vụ việc và làm cơ sở cho cơ quan có thẩm quyền đưa ra quyết định xử lý. Việc giao nộp chứng cứ không chỉ thể hiện quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia tố tụng mà còn bảo đảm quá trình giải quyết vụ việc được tiến hành minh bạch, đúng pháp luật. Vì vậy, Điều 19 Nghị định số 35/2020/NĐ-CP ngày 24/3/2020 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Cạnh tranh đã nêu rõ về việc giao nộp chứng cứ như sau:
“Điều 19. Giao nộp chứng cứ
1. Người tham gia tố tụng cạnh tranh quy định tại Điều 66 của Luật Cạnh tranh trừ người phiên dịch có quyền và nghĩa vụ giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh, Hội đồng xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh trong quá trình điều tra, giải quyết vụ việc cạnh tranh.
2. Việc giao nộp chứng cứ quy định tại khoản 1 Điều này phải được lập thành biên bản. Trong biên bản phải ghi rõ tên gọi, hình thức, nội dung, đặc điểm của chứng cứ; số bản, số trang của chứng cứ và thời gian nhận; chữ ký hoặc điểm chỉ của người giao nộp và chữ ký của người nhận và dấu của Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh, Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia. Biên bản phải lập thành hai bản, một bản lưu vào hồ sơ vụ việc cạnh tranh và một bản giao cho bên giao nộp chứng cứ giữ.
3. Các tài liệu, chứng cứ bằng tiếng dân tộc thiểu số, tiếng nước ngoài phải kèm theo bản dịch sang tiếng Việt được công chứng, chứng thực hợp pháp.
4. Thời gian giao nộp tài liệu, chứng cứ không được quá thời hạn điều tra quy định tại Điều 81, 87 của Luật Cạnh tranh, thời hạn điều tra bổ sung quy định tại Điều 89, 90, 91 của Luật Cạnh tranh hoặc theo yêu cầu của Chủ tịch Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia, Hội đồng xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh.”
Dẫn chiếu đến Điều 66, 81, 87, 89, 90 và 91 của Luật Cạnh tranh 2018 quy định như sau:
“Điều 66. Người tham gia tố tụng cạnh tranh
1. Bên khiếu nại.
2. Bên bị khiếu nại.
3. Bên bị điều tra.
4. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
5. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên khiếu nại, bên bị khiếu nại, bên bị điều tra, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
6. Người làm chứng.
7. Người giám định.
8. Người phiên dịch.”
“Điều 81. Thời hạn điều tra vụ việc cạnh tranh
1. Thời hạn điều tra vụ việc hạn chế cạnh tranh là 09 tháng kể từ ngày ra quyết định điều tra; đối với vụ việc phức tạp thì được gia hạn một lần nhưng không quá 03 tháng.
2. Thời hạn điều tra vụ việc vi phạm quy định về tập trung kinh tế là 90 ngày kể từ ngày ra quyết định điều tra; đối với vụ việc phức tạp thì được gia hạn một lần nhưng không quá 60 ngày.
3. Thời hạn điều tra vụ việc cạnh tranh không lành mạnh là 60 ngày kể từ ngày ra quyết định điều tra; đối với vụ việc phức tạp thì được gia hạn một lần nhưng không quá 45 ngày.
4. Việc gia hạn điều tra phải được thông báo đến bên bị điều tra và các bên liên quan chậm nhất là 07 ngày làm việc trước ngày kết thúc thời hạn điều tra.”
“Điều 87. Khôi phục điều tra
1. Thủ trưởng Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh tự mình hoặc theo yêu cầu của Chủ tịch Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia hoặc theo đề nghị của các bên liên quan khôi phục điều tra trong các trường hợp sau đây:
a) Bên bị điều tra không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ cam kết theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 86 của Luật này;
b) Việc chấp thuận cam kết của bên bị điều tra dựa trên các thông tin không đầy đủ, không chính xác hoặc thông tin sai lệch do các bên cung cấp.
2. Thời hạn điều tra sau khi có quyết định khôi phục điều tra là 04 tháng.”
“Điều 89. Xử lý vụ việc vi phạm quy định về tập trung kinh tế
1. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ việc, báo cáo điều tra và kết luận điều tra, Chủ tịch Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia phải ra một trong các quyết định sau đây:
a) Xử lý vụ việc vi phạm quy định về tập trung kinh tế;
b) Yêu cầu Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh điều tra bổ sung trong trường hợp nhận thấy các chứng cứ thu thập chưa đủ để xác định hành vi vi phạm quy định của pháp luật về cạnh tranh. Thời hạn điều tra bổ sung là 30 ngày kể từ ngày ra quyết định;
c) Đình chỉ giải quyết vụ việc vi phạm quy định về tập trung kinh tế.
2. Thời hạn xử lý vụ việc vi phạm quy định về tập trung kinh tế trong trường hợp điều tra bổ sung là 20 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ, báo cáo điều tra và kết luận điều tra bổ sung.
Điều 90. Xử lý vụ việc cạnh tranh không lành mạnh
1. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ việc, báo cáo điều tra và kết luận điều tra, Chủ tịch Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia phải ra một trong các quyết định sau đây:
a) Xử lý vụ việc cạnh tranh không lành mạnh;
b) Yêu cầu Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh điều tra bổ sung trong trường hợp nhận thấy các chứng cứ thu thập chưa đủ để xác định hành vi vi phạm quy định của pháp luật về cạnh tranh. Thời hạn điều tra bổ sung là 30 ngày kể từ ngày ra quyết định;
c) Đình chỉ giải quyết vụ việc cạnh tranh không lành mạnh.
2. Thời hạn xử lý vụ việc cạnh tranh không lành mạnh trong trường hợp điều tra bổ sung là 10 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ, báo cáo điều tra và kết luận điều tra bổ sung.
Điều 91. Xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh
1. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ việc, báo cáo điều tra và kết luận điều tra, Chủ tịch Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia phải ra quyết định thành lập Hội đồng xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh để xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh.
2. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày được thành lập, Hội đồng xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh có thể yêu cầu Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh tiến hành điều tra bổ sung trong trường hợp nhận thấy các chứng cứ thu thập chưa đủ để xác định hành vi vi phạm quy định của pháp luật về cạnh tranh. Thời hạn điều tra bổ sung là 60 ngày kể từ ngày yêu cầu.
3. Trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày được thành lập hoặc ngày nhận được báo cáo điều tra và kết luận điều tra bổ sung, Hội đồng xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh phải ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ việc cạnh tranh theo quy định tại Điều 92 của Luật này hoặc ra quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh theo quy định tại Điều 94 của Luật này.
4. Trước khi ra quyết định xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh, Hội đồng xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh phải mở phiên điều trần theo quy định tại Điều 93 của Luật này.
5. Hội đồng xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh ra quyết định xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh trên cơ sở thảo luận, bỏ phiếu kín và quyết định theo đa số.”
Như vậy, những người tham gia tố tụng cạnh tranh theo quy định của pháp luật (trừ người phiên dịch) có quyền và nghĩa vụ giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh, Hội đồng xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh trong quá trình điều tra, giải quyết vụ việc cạnh tranh. Việc giao nộp chứng cứ này phải được lập thành biên bản có ghi rõ tên gọi, hình thức, nội dung, đặc điểm của chứng cứ; số bản, số trang của chứng cứ và thời gian nhận; chữ ký hoặc điểm chỉ của người giao nộp và chữ ký của người nhận cùng với dấu của Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh, Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia. Biên bản này phải được lập thành hai bản, một bản lưu vào hồ sơ vụ việc cạnh tranh và một bản giao cho bên giao nộp chứng cứ giữ. Quy định này bảo đảm chứng cứ trong tố tụng cạnh tranh được thu thập, ghi nhận một cách minh bạch, hợp pháp và đầy đủ, qua đó bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên.
Bên cạnh đó, điều pháp luật còn nêu rõ nếu các tài liệu, chứng cứ bằng tiếng dân tộc thiểu số, tiếng nước ngoài phải kèm theo bản dịch sang tiếng Việt được công chứng, chứng thực hợp pháp. Không những vậy, việc giao nộp tài liệu, chứng cứ nói trên phải tuân thủ quy định về thời gian, không được quá thời hạn điều tra, thời hạn điều tra bổ sung theo luật định hoặc theo yêu cầu của Chủ tịch Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia, Hội đồng xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh.
Từ những phân tích trên ta thấy rằng việc giao nộp chứng cứ trong tố tụng cạnh tranh không chỉ là quyền, nghĩa vụ pháp lý của các bên tham gia mà còn là cơ sở quan trọng để các chủ thể có thẩm quyền đánh giá, xác minh và đưa ra quyết định khách quan, chính xác. Quy trình giao nộp được lập biên bản chặt chẽ, giới hạn về thời gian giúp bảo đảm tính minh bạch, hợp pháp của chứng cứ, đồng thời giữ gìn quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan trong suốt quá trình giải quyết vụ việc.
2. Việc bảo quản chứng cứ trong tố tụng cạnh tranh được thực hiện ra sao?
Sau khi chứng cứ được giao nộp cho các chủ thể có thẩm quyền, việc bảo quản chứng cứ là khâu quan trọng tiếp theo trong quá trình tố tụng cạnh tranh, nhằm bảo đảm chứng cứ được giữ gì nguyên vẹn, tránh bị hư hỏng, mất mát hoặc bị sửa đổi, qua đó duy trì giá trị pháp lý và tính khách quan của chứng cứ trong suốt quá trình điều tra, xử lý vụ việc. Căn cứ Điều 23 Nghị định số 35/2020/NĐ-CP ngày 24/3/2020 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Cạnh tranh đã ghi nhận về việc bảo quản chứng cứ như sau:
“Điều 23. Bảo quản chứng cứ
1. Trường hợp chứng cứ đã được giao nộp tại Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh, Hội đồng xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh thì tại Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh, Hội đồng xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh chịu trách nhiệm bảo quản.
2. Trường hợp chứng cứ không thể giao nộp được tại Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh, Hội đồng xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh thì người đang lưu giữ chứng cứ đó có trách nhiệm bảo quản.
3. Trường hợp cần giao chứng cứ cho người thứ ba bảo quản, Thủ trưởng Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh, Hội đồng xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh ra quyết định và lập biên bản giao cho người đó bảo quản. Người nhận bảo quản phải ký tên vào biên bản, được hưởng thù lao và phải chịu trách nhiệm về việc bảo quản chứng cứ đó.”
Quy định trên đã nêu rõ tùy trường hợp mà trách nhiệm bảo quản thuộc về chủ thể khác nhau, cụ thể:
- Nếu chứng cứ đã được giao nộp tại Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh, Hội đồng xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh thì tại đây, hai chủ thể này chịu trách nhiệm bảo quản;
- Nếu chứng cứ không thể giao nộp được tại Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh, Hội đồng xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh thì người đang lưu giữ chứng cứ đó có trách nhiệm bảo quản;
- Nếu rơi vào trường hợp cần giao chứng cứ cho người thứ ba bảo quản, Thủ trưởng Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh, Hội đồng xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh sẽ ra quyết định và lập biên bản giao cho người đó bảo quản. Cần lưu ý rằng người nhận bảo quản này phải ký tên vào biên bản, được hưởng thù lao và phải chịu trách nhiệm về việc bảo quản chứng cứ đó.
Qua đó, ta thấy được rằng pháp luật luôn chú trọng đến chứng cứ liên quan đến việc giải quyết vụ việc trong tố tụng cạnh tranh. Việc bảo đảm chứng cứ được lưu giữ nguyên trạng, đầy đủ và đúng quy trình không chỉ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên tham gia mà còn góp phần duy trì tính minh bạch, công bằng và hiệu quả của toàn bộ quá trình tố tụng cạnh tranh, qua đó củng cố niềm tin của xã hội vào hoạt động thực thi pháp luật cạnh tranh.
Trân trọng./.