Tổng hợp 10 bản án hủy, sửa về tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động

MỤC LỤC

1. Bản án lao động phúc thẩm số 11/2023/LĐ-PT ngày 15/8/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai về việc tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động

2. Bản án lao động phúc thẩm số 600/2022/LĐ-PT ngày 26/9/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về việc tranh chấp hợp đồng lao động – đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật

3. Bản án lao động phúc thẩm số 630/2022/LĐ-PT ngày 29/9/2033 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về việc tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động

4. Bản án lao động phúc thẩm số 429/2023/LĐ-PT ngày 07/4/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về việc tranh chấp về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, đòi tài sản

5. Bản án lao động phúc thẩm số 01/2020/LĐ-PT ngày 30/6/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định về việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, về bồi thường thiệt hại khi chấm dứt hợp đồng lao động

6. Bản án lao động phúc thẩm số 04/2023/LĐ-PT ngày 09/01/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương về việc tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động

7. Bản án lao động phúc thẩm số 413/2022/LĐ-PT ngày 26/7/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về việc tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động

8. Bản án lao động phúc thẩm số 06/2024/LĐ-PT ngày 23/4/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An về việc tranh chấp về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động

9. Bản án lao động phúc thẩm số 02/2023/LĐ-PT ngày 12/12/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum về việc tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động

10. Bản án lao động phúc thẩm số 875/2023/LĐ-PT ngày 23/8/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về việc tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động

 

1. Bản án lao động phúc thẩm số 11/2023/LĐ-PT ngày 15/8/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai về việc tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động

Nội dung hủy án:

(i) Tại đơn khởi kiện ngày 10/1/2022 của nguyên đơn bà Đỗ Thanh H thể hiện bà vào làm việc tại công ty từ tháng 01 năm 2006 (BL 04), tại đơn khởi kiện bổ sung ngày 21/10/2022 ( BL81) thể hiện bà H vào làm việc tại công ty từ ngày 09/4/2004, tại biên bản đối chất ngày 06/12/2022 (BL 89) thì bà H trình bày vào công ty làm việc là tháng 01/2006. Mặc khác, công ty trình bày bà H làm việc tại công ty vào khoảng tháng 6/2005. Như vậy, mốc thời gian vào làm việc của bà H tại Công ty TNHH V chưa được cấp sơ thẩm làm rõ. Đối với mức lương, Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ vào mức lương bình quân trước khi nghỉ việc của bà H là 8.000.000đ/tháng để làm căn cứ tính tiền nghỉ phép từ 04/2004 đến tháng 06/2016, trong khi lời khai của bị đơn Công ty TNHH V thể hiện mức lương khi vào làm chỉ khoảng 4.000.000đ/tháng (bút lục 144). Tại phiên tòa phúc thẩm, bị đơn trình bày giấy xác nhận lương ngày 25/5/2020, công ty xác nhận mức lương 8.000.000 đồng/tháng chỉ là thủ tục để bà H mua xe trả góp. Do đó, cấp sơ thẩm cần phải đối chất để xác định mức lương từng giai đoạn để từ đó xem xét yêu cầu khởi kiện của bà H về bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp và tiền phép năm. Riêng đối với mức lương làm căn cứ tính bồi thường thiệt hại do đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động thì cũng phải xác định mức lương trước khi nghỉ việc để làm căn cứ tính bồi thường. Bên cạnh đó, việc công ty cho rằng từ khi thành lập cho đến nay công ty chỉ sử dụng dưới 10 lao động. Vấn đề này cần phải được thu thập chứng cứ làm rõ, chứng minh công ty chỉ sử dụng dưới 10 lao động để từ đó giải quyết chế độ cho người lao động phù hợp với quy định pháp luật.

(ii) Cấp sơ thẩm chấp nhận số tiền phép năm từ thời gian tháng 4/2004 đến tháng 4/2021 tổng cộng 223 ngày với tổng số tiền là 205.846.163 đồng nhưng chưa thông qua thủ tục hòa giải là chưa đủ điều kiện để được xem xét giải quyết tại Tòa án, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng theo quy định tại khoản 1 Điều 188 Bộ luật lao động 2019 quy định những tranh chấp lao động cá nhân phải được giải quyết thông qua thủ tục hòa giải của hòa giải viên lao động trước khi yêu cầu Hội đồng trọng tài lao động hoặc Tòa án giải quyết có tranh chấp về thanh toán tiền phép năm.

2. Bản án lao động phúc thẩm số 600/2022/LĐ-PT ngày 26/9/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về việc tranh chấp hợp đồng lao động – đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật

Nội dung hủy án 

(i) Xem xét yêu cầu kháng cáo của bị đơn Công ty TNHH M, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy: trình bày trong đơn kháng cáo, người đại diện theo ủy quyền của bị đơn cho rằng trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm đã tiến hành thu thập chứng cứ không đầy đủ, bỏ qua tiến trình tố tụng là hòa giải tại cơ sở đối với tranh chấp lao động về tiền lương là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng theo quy định tại Khoản 2, Khoản 4 Điều 188 Bộ luật Lao động năm 2019.

(ii) Đồng thời, khi giải quyết vụ án này, Tòa án cấp sơ thẩm chưa xem xét đến Quyết định thôi việc do Tổng giám đốc Công ty TNHH M ban hành ngày 13 tháng 2 năm 2020 tại trụ sở chính của Công ty tại thành phố N, tỉnh Khánh Hòa, trong đó xác định rõ bà H nghỉ việc tại Công ty xuất phát từ sự thỏa thuận chấm dứt việc làm giữa hai bên chứ không phải do đơn phương chấm dứt việc làm trái pháp luật.

(iii) Ngoài đề nghị trên của Đại diện Viện kiểm sát, qua nghiên cứu hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử phúc thẩm cần lưu ý thêm rằng: phần tóm tắt nội dung của bản án sơ thẩm như đã được trích dẫn tại phần đầu bản án là chưa rõ ràng, chưa đề cập đến Quyết định sa thải số 06/2020/QĐ-MNĐ do Công ty TNHH M ban hành ngày 13/02/2020. Do đó, cần lưu ý làm rõ Quyết định sa thải này. Đồng thời, trước khi mở phiên tòa phúc thẩm, Công ty TNHH M đã ban hành Quyết định thu hồi Quyết định sa thải số 06/2020/QĐ-MNĐ ngày 13 tháng 2 năm 2020. Vì vậy, phần phát sinh mới này chưa được xem xét, do đó, cần được đưa vào hồ sơ vụ án để được tiếp tục giải quyết khi xét xử lại vụ án để đảm bảo quyền lợi của các bên đương sự.

3. Bản án lao động phúc thẩm số 630/2022/LĐ-PT ngày 29/9/2033 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về việc tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động

Nội dung hủy án 

(i) Xác định Hội đồng xét xử sơ thẩm phải xem xét giải quyết toàn bộ những yêu cầu của đương sự như trên, tuy nhiên phần nhận định của bản án sơ thẩm chỉ đánh giá chứng cứ, áp dụng pháp luật để xem xét yêu cầu tuyên bố Quyết định số: 05-032021/QĐCD/BGCO ngày 09/3/2021 của Công ty Cổ phần X “V/v: Cho thôi việc/nghỉ việc, chấm dứt Hợp đồng lao động” đối với bà Trần Thị H là trái pháp luật hay đúng pháp luật. Hội đồng xét xử sơ thẩm đã tuyên án không chấp nhận yêu cầu nêu trên của nguyên đơn cùng với việc không chấp nhận yêu cầu bồi thường của bà H nhưng không nêu rõ bồi thường những khoản nào. Căn cứ theo các quy định tại Điều 39 và 41 Bộ luật lao động năm 2019 thì nghĩa vụ của người sử dụng lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật trong vụ án này (nếu có) được xác định gồm các yêu cầu (Được xem là yêu cầu bồi thường của người lao động khi bị người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật):

-Thanh toán tiền lương trong những ngày không được làm việc (tính từ tháng 4/2021 đến tháng 12/2021) với số tiền cụ thể là: 13.200.000 đồng x 09 tháng =118.800.000 đồng.

-Trả thêm ít nhất 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động: 13.200.000 đồng x 02 tháng =26.400.000 đồng.

Tổng số tiền Công ty phải trả cho bà H là: 156.444.444 đồng.

-Đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho bà Hiền từ tháng 04/2021 đến tháng 12/2021, với mức lương 13.200.000 đồng.

Như vậy, bản án sơ thẩm chưa xem xét và tuyên án đối với các yêu cầu khác của nguyên đơn gồm:

-Thanh toán tiền lương tháng 03/2021 với số tiền là 11.244.444 đồng;

-Đóng thêm bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp tháng 12/2020 còn thiếu cho bà H với mức lương 13.200.000 đồng (Công ty chỉ đóng trên mức lương là 4.800.000 đồng);

-Đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp còn thiếu từ tháng 01/2021 đến tháng 3/2021 cho bà H với mức lương 13.200.000 đồng (Công ty chỉ đóng trên mức lương là 4.800.000 đồng).

Do đó, xác định án sơ thẩm xét xử và tuyên án chưa đủ các yêu cầu của đương sự là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng theo quy định tại các Điều 5, 17, 70 và Điều 266 Bộ luật tố tụng dân sự. Vi phạm thủ tục tố tụng nêu trên của bản án sơ thẩm cũng đã được Viện trưởng Viện Kiểm Sát nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh nêu rõ trong nội dung của Quyết định kháng nghị và ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa.

(ii) Ngoài ra, cấp sơ thẩm cần lưu ý khi thụ lý và giải quyết lại vụ án đối với yêu cầu tranh chấp về tiền lương nếu các bên đương sự không tự thương lượng hòa giải được với nhau thì các bên phải tiến hành thủ tục hòa giải của hòa giải viên lao động theo quy định tại Điều 188 Bộ luật lao động năm 2019 trước khi khởi kiện tại Tòa án; Đối với án phí của người lao động khởi kiện cần áp dụng đúng quy định theo Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Q; Đối với việc giải quyết về nội dung vụ án, cần thu thập thêm tài liệu, chứng cứ trực tiếp liên quan đến các yêu cầu của đương sự, cụ thể gồm: Nội quy; Quy chế; Thỏa ước lao động tập thể của người sử dụng lao động; Xác minh việc đóng bảo hiểm xã hội. Xem xét và đánh giá các chứng cứ mà các bên đã nộp bổ sung tại phiên tòa phúc thẩm để giải quyết vụ án đúng quy định pháp luật.

4. Bản án lao động phúc thẩm số 429/2023/LĐ-PT ngày 07/4/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về việc tranh chấp về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, đòi tài sản

Nội dung hủy án 

(i) Ngày 30/9/2022, Hội đồng xét xử sơ thẩm đã thảo luận, thống nhất ban hành Bản án lao động sơ thẩm số 80/2022/LĐ-ST. Đến ngày 11/10/2022, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án ban hành các Quyết định sửa chữa, bô sung bản án số 81/2022/QĐ-SCBCBAST và 82/2022/QĐ-SCBCBAST sửa chữa, bổ sung phần nhận định và quyết định của bản án sơ thẩm. Xét thấy, các quyết định sửa chữa, bổ sung bản án nêu trên không thuộc “trường hợp phát hiện lỗi rõ ràng về chính tả, về số liệu do nhầm lẫn hoặc tính toán sai” và Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án không được nhân danh cá nhân thực hiện sửa chữa, bổ sung bản án mà phải phối hợp với các Hội thẩm nhân dân là thành viên Hội đồng xét xử đã tuyên bản án ra quyết định sửa chữa bổ sung, bản án. Mặt khác, Biên bản nghị án ngày 30/9/2022 không thể hiện nội dung: “Đình chỉ giải quyết yêu cầu của bà Phạm Thị Kim T đối với Công ty cổ phần S đối với yêu cầu bồi thường tiền lương cho những ngày không được báo trước do không thông báo chấm dứt hợp đồng lao động đúng luật: 34.626.000 x 45 ngày 51.939.000 đồng” và đã được các thành viên Hội đồng xét xử sơ thẩm biểu quyết thông qua là vi phạm Điều 268 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.

(ii) Trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn có yêu cầu khởi kiện buộc bị đơn chốt sổ bảo hiểm và trả sổ cho nguyên đơn; hủy các quyết định khác của bị đơn. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm chưa nhận định, xem xét yêu cầu chốt sổ bảo hiểm và trả sổ cho nguyên đơn, chưa làm rõ các yêu cầu hủy các quyết định khác của bị đơn là những quyết định nào, làm cơ sở đánh giá chứng cứ và tuyên xử chấp nhận hoặc không chấp nhận các yêu cầu khởi kiện này của nguyên đơn là có thiếu sót, vi phạm Điều 5 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.

(iii) Tại trang số 2 của Quyết định sửa chữa, bổ sung bản án số 82/2022/QĐ-SCBSBAST ngày 11/10/2022, Thẩm phán đã sửa trang 19 dòng 18 từ trên xuống đối với nội dung “Đình chỉ giải quyết yêu cầu của bà Phạm Thị Kim T đối với Công ty cổ phần S...” là có sự nhầm lẫn, làm thay đổi nội dung phần quyết định của bản án nên có cơ sở chấp nhận phần kháng nghị này của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

(iv) Tại mục [3.3.6] trang số 12 của bản án sơ thẩm, Hội đồng xét xử sơ thẩm đã nhận định “Do nguyên đơn yêu cầu bị đơn nhận trở lại làm việc và có căn cứ chấp nhận nên Hội đồng xét xử không xét đến điều kiện về thời hạn báo trước khi bị đơn đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với nguyên đơn theo quy định”. Tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn đã rút yêu cầu khởi kiện buộc bị đơn bồi thường số tiền 51.939.000 đồng do vi phạm thời gian báo trước, do đó Hội đồng xét xử sơ thẩm cần nhận định việc tự nguyện rút yêu cầu khởi kiện này của nguyên đơn, làm cơ sở xem xét, quyết định đình chỉ giải quyết đối với phần yêu cầu khởi kiện đã rút. Tại Quyết định sửa chữa, bổ sung bản án số 82/2022/QĐ-SCBSBAST ngày 11/10/2022, Thẩm phán đã bổ sung phần đình chỉ đối với yêu cầu này nhưng vẫn giữ nguyên phần nhận định này là không phù hợp quy định khoản 5 Điều 45 Bộ luật Lao động năm 2012 nên có cơ sở chấp nhận phần kháng nghị này của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

(v) Tại mục [3.4.1] trang số 13 dòng thứ 2 từ trên xuống của bản án sơ thẩm, Hội đồng xét xử sơ thẩm đã nhận định “Đây là văn bản duy nhất, cuối cùng thể hiện thỏa thuận mức lương của bà T, trường hợp nếu khi người sử dụng lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật thì người lao động chỉ có trách nhiệm bồi thường theo mức lương theo hợp đồng lao động quy định tại khoản 1 Điều 42 Bộ luật lao động”. Xét thấy Hội đồng xét xử sơ thẩm nhận định người lao động có trách nhiệm bồi thường khi người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật là không phù hợp quy định tại Điều 42 Bộ luật Lao động năm 2012 nên có cơ sở chấp nhận phần kháng nghị này của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

(vi) Tại dòng thứ 17 và 18 trang số 18 từ trên xuống của bản án sơ thẩm có sự sai sót do đánh máy số tiền ghi bằng chữ 2.400.000 đồng nên Tòa án cấp sơ thẩm rút kinh nghiệm.

5. Bản án lao động phúc thẩm số 01/2020/LĐ-PT ngày 30/6/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định về việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, về bồi thường thiệt hại khi chấm dứt hợp đồng lao động

Nội dung hủy án 

(i) Trong hồ sơ vụ án không có đơn khởi kiện mà chỉ có: “ Đơn bổ sung đơn khởi kiện ngày 24/3/2019 (V/v: Yêu cầu Tòa án hủy Quyết định hành chính sai trái…)” đề ngày 26/7/2019 kèm theo Phiếu chuyển số: 2738/PC-TA ngày 30/7/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định, chuyển Đơn khởi kiện vụ án hành chính của bà Trần NữPh cho Tòa án nhân dân huyện H giải quyết theo thẩm quyền (BL: 17, 18, 19) và Đơn khởi kiện bổ sung ngày 02/4/2019 (BL: 31), nhưng Tòa án nhân dân huyện H lại thụ lý giải quyết vụ án khi không có đơn khởi kiện là vi phạm quy định 189, khoản 1 Điều 195 của Bộ luật tố tụng dân sự. Trong quá trình khởi kiện và giải quyết vụ án, bà Trần Nữ Ph và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà Phúc đã nhiều lần khẳng định bà Phúc kiện vụ án hành chính theo quy định tại Điều 118, 125 của Luật tố tụng hành chính chứ không khởi kiện vụ án lao động, lẽ ra cấp sơ thẩm phải trả đơn khởi kiện hoặc thụ lý vụ án hành chính theo Phiếu chuyển số: 2738/PC-TA ngày 30/7/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định và trong quá trình giải quyết vụ án nếu xét thấy quyết định mà bà Phúc yêu cầu hủy không phải là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính (quyết định hành chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức) thì cấp sơ thẩm ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án theo quy định tại khoản 6 Điều 3, điểm c khoản 1 Điều 30 Điều, 143, Điều 144 và Điều 165 của Luật tố tụng hành chính, nhưng ở đây cấp sơ thẩm lại thụ lý vụ án lao động là vi phạm quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự, người khởi kiện được quy định tại Điều 5 của Bộ luật tố tụng dân sự, Điều 8 của Luật tố tụng hành chính, làm ảnh hưởng quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Mặt khác, cấp sơ thẩm xác định quan hệ pháp luật của vụ án là “Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, về bồi thường thiệt hại khi chấm dứt hợp đồng” là chưa chính xác, mà quan hệ pháp luật của vụ án phải là: “Đơn phương chấm dứt hợp đồng làm việc và giải quyết các chế độ khi chấm dứt hợp đồng làm việc”, bởi vì bà Trần Nữ Ph là viên chức bị chấm dứt hợp đồng làm việc theo quy định tại khoản 1, 2 Điều 29 Luật viên chức năm 2010 và việc giải quyết chế độ cho bà Phúc được quy định tại Điều 45 Luật viên chức năm 2010.

(ii) Cấp sơ thẩm xác định Ủy ban nhân dân huyện H và Phòng giáo dục đào tạo huyện H là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án là đúng quy định tại khoản 4 điều 86 Bộ luật tố tụng dân sự, bởi lẽ hai cơ quan này liên quan đến việc tuyển dụng, bổ nhiệm, quản lý Đơn vị sự nghiệp công lập, chấm dứt hợp đồng làm việc cũng như giải quyết các chế độ khi chấm dứt hợp đồng làm việc đối với bà Ph. Tuy nhiên, cấp sơ thẩm chỉ tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải giữa nguyên đơn và bị đơn mà không tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải đối với toàn bộ các đương sự là vi phạm nghiêm trọng quy định tại điểm g khoản 2 Điều 203, khoản 1 Điều 205, khoản 1 Điều 208 và điểm c khoản 1 Điều 209 của Bộ luật tố tụng dân sự, vì việc kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải với thành phần tham gia là tất cả các đương sự là thủ tục tố tụng bắt buộc.

(iii) Tòa án cấp sơ thẩm nhận định “…Thế nhưng tại tòa, chị Ph không cung cấp “bản hợp đồng làm việc” giữa Hiệu trưởng và chị Phúc theo quy định , để Tòa án có tài liệu, chứng cứ xem xét…”. Tuy nhiên, cấp sơ thẩm nhận định nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để chứng minh trong vụ án này thuộc về bà Ph là trái pháp luật, bởi lẽ: Tại điểm b khoản 1 Điều 91 của Bộ luật tố tụng dân sự đã quy định về nghĩa vụ chứng minh: “ b) Đương sự là người lao động trong vụ án lao động mà không cung cấp, giao nộp được cho Tòa án tài liệu, chứng cứ … thì người sử dụng lao động có trách nhiệm cung cấp, giao nộp tài liệu, chứng cứ đó cho Tòa án….Người khởi kiện vụ án đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động… thì nghĩa vụ chứng minh thuộc về người sử dụng lao động;”. Cấp sơ thẩm lấy lý do bà Ph không cung cấp được tài liệu, chứng cứ để bác yêu cầu khởi kiện đòi tiền lương, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm (BL: 33)… của bà Phúc là trái với quy định tại Điều 45 Luật viên chức năm 2010, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà Ph.

(iv) Trong phần nhận định của bản án sơ thẩm có thể hiện việc Hội đồng xét xử có xem xét ý kiến của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, nhưng trong phần quyết định của bản án lại ghi không xem xét ý kiến của họ là có sự mâu thuẫn trong cùng một bản án. Cấp sơ thẩm cho rằng bị đơn không có yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập nên không xem xét ý kiến của họ là không đúng, bởi vì những người này có quyền có ý kiến phản đối yêu cầu của người khác được quy định tại khoản 2 Điều 91 của Bộ luật tố tụng dân sự.

(v) Cấp sơ thẩm buộc bà Phúc phải nộp 300.000 đồng án phí lao động sơ thẩm là vi phạm quy định tại điểm a khoản 1 điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường Vụ Quốc Hội khóa XIV, vì bà Ph được miễn nộp tạm ứng án phí, án phí khi khởi kiện vụ án lao động đòi tiền lương, trợ cấp mất việc làm...

6. Bản án lao động phúc thẩm số 04/2023/LĐ-PT ngày 09/01/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương về việc tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động

Nội dung sửa án:

(i) Theo như phân tích như trên thì: Từ cuối tháng 5 cho đến tháng 11 năm 2021, ông Vũ không đến Công ty V làm việc là vi phạm Nội quy lao động của Công ty, nhưng do Công ty không liên lạc được với ông V nên chưa tiến hành xử lý kỷ luật lao động đối với ông V là phù hợp. Đồng thời, theo khoản 4 Điều 42 Quyết định số 595/QĐ-BHXH ngày 14/4/2017 của Tổng Giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam về quy trình thu bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; cấp sổ bảo hiểm xã hội, thẻ bảo hiểm y tế quy định: “Người lao động không làm việc và không hưởng tiền lương từ 14 ngày làm việc trở lên trong tháng thì không đóng bảo hiểm xã hội tháng đó. Thời gian này không được tính để hưởng Bảo hiểm xã hội”. Do ông V không đến Công ty V làm việc, không có cơ sở để chấm công nên thuộc trường hợp nghỉ làm không lương. Do đó, Công ty V ngưng trả lương cho ông V và nộp hồ sơ qua giao dịch điện tử, số sồ sơ 164518/2021/07407 ngày 28/10/2021 báo giảm không lương cho ông Lê Văn V từ tháng 10 năm 2021 là phù hợp. Do đó, việc ông V khởi kiện yêu cầu Công ty V phải trả tiền lương của những ngày không được làm việc tính từ ngày 01/10/2021 đến ngày xét xử sơ thẩm là 12 tháng x 18.130.522 đồng/tháng với số tiền 217.566.264 đồng; truy đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp trong thời gian này là không có căn cứ. Tại phiên tòa sơ thẩm, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện, chỉ yêu cầu Công ty V thanh toán 10 tháng lương của những ngày không được làm việc với số tiền 181.305.220 đồng (tức rút 02 tháng lương của những ngày không được làm việc), nhưng Tòa án cấp sơ thẩm đình chỉ xét xử đối với 04 tháng là không phù hợp. Mặt khác, theo quy định tại khoản 1 Điều 218 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì trường hợp này ông V được quyền khởi kiện lại nếu thời hiệu khởi kiện vẫn còn, Tòa án cấp sơ thẩm xác định “nguyên đơn không có quyền khởi kiện lại” là không đúng. Ngoài ra, Hợp đồng lao động số PVHC326664-03 ngày 01/5/2020 hai bên ký kết theo quy định của Bộ luật Lao động năm 2012 và xác định “Hợp đồng lao động này được thực hiện theo luật hiện hành của Việt Nam”, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm lại áp dụng Bộ luật Lao động năm 2019 để giải quyết là không phù hợp, cần rút kinh nghiệm.

(ii) Xét yêu cầu khởi kiện của ông V về việc đề nghị xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi không trả lương và các khoản phụ cấp theo thỏa thuận trong hợp đồng lao động là không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nên Tòa án cấp sơ thẩm đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu này là đúng quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 192, điểm g khoản 1 Điều 217 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Xét thấy, quá trình tóm lược ý kiến trình bày của bị đơn, Tòa án cấp sơ thẩm có nhiều nhầm lẫn giữa bị đơn với nguyên đơn làm cho người đọc khó hiểu được nội dung, nhưng đây là lỗi chính tả do cẩu thả; đồng thời, vi phạm về thời hạn tống đạt giấy triệu tập cho Luật sư, nhưng Luật sư vẫn có mặt tại phiên tòa sơ thẩm để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn nên không ảnh hưởng đến quyền lợi ích hợp pháp của nguyên đơn; việc Luật sư lấy lý do này để yêu cầu hủy toàn bộ bản án sơ thẩm là không có căn cứ. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm cần nghiêm túc rút kinh nghiệm.

7. Bản án lao động phúc thẩm số 413/2022/LĐ-PT ngày 26/7/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về việc tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động

Nội dung sửa án 

(i) Về trách nhiệm nhận ngư i lao động trở lại làm việc: Do quyết định giải quyết thôi việc của nguyên đơn là trái pháp luật nên bị đơn phải nhận ngư i lao động trở lại làm việc với vị trí cũ (theo khoản 1 Điều 41 BLLĐ năm 2012). Tuy nhiên căn cứ vào các biên bản hòa giải tại cấp sơ thẩm, được sự thừa nhận của các đương sự tại phiên tòa phúc thẩm, thì bị đơn đã đồng ý nhận ngư i lao động trở lại làm việc vào ngày 01/12/2021 theo yêu cầu của nguyên đơn. Đây là quyết định được coi là sửa sai cho quyết định giải quyết thôi việc của bị đơn phù hợp với quy định về trách nhiệm của ngư i sử dung lao đông nhận ngư i lao động trở lại làm việc khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật. Do đó, nguyên đơn phải chấp hành nghĩa vụ của ngư i lao động theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 5 BLLĐ năm 2012 về việc chấp hành nội quy lao động, kỷ luật lao động và sự điều hành hợp pháp của ngư i sử dụng lao động. Việc nguyên đơn không trở lại làm việc với lý do sự việc đang được Tòa án giải quyết là mâu thuẫn với chính yêu cầu của nguyên đơn về việc nhận ngư i lao động trở lại làm việc, nên hợp đồng lao động số 02/2019/HĐLĐ-J ngày 16/3/2019 giũa đôi bên được chấm dứt kể từ ngày 01/12/2021. Án sơ thẩm tính các quyền lợi của nguyên đơn được kéo dài cho tới ngày xét xử sơ thẩm là chưa đúng Tòa án cấp phúc thẩm sửa lại cho đúng với tình tiết vụ án.

(ii) Cũng vì lý do trên mà Tòa án cấp sơ thẩm công nhận thỏa thuận giữa đôi bên về việc nguyên đơn trở lại làm việc cho bị đơn là không đúng.

(iii) Đối chiếu bảng lương: Tháng 6 năm 2020 nguyên đơn nghỉ dịch covid chỉ hưởng tiền hỗ trợ nên không tính; tháng 7/2020 nguyên đơn có thu nhập 7.131.872đ trừ tiền ăn giữa ca 730.000đ và trợ cấp làm đêm 1.080.000đ tiền lương để tính bồi thư ng sẽ là 5.321.872đ; tương tự: tháng 8/2020 thu nhập 7.461.872đ – 730.000đ – 960.000đ = 5.771.872đ; tháng 9/2020 thu nhập 7501.872 đ – 730.000đ – 1.000.000đ = 5.771.872đ; tháng 10/2020 thu nhập 7.581.872đ – 730.000đ – 1.080.000đ = 5.771.872đ; tháng 11 không có số liệu về bữa ăn giữa ca và tiền làm đêm đây là lỗi của ngư i sử dụng lao động nên người lao động được tính tổng thu nhập là 6.501.872đ; như vậy lương bình quân của nguyên đơn sẽ là: 5.827.872đ. Do cấp sơ thẩm không tính đúng và đủ khoản tiền này nên Tòa án cấp phúc thẩm sửa các khoản bồi thư ng và trả cho người lao động cho đúng quy định pháp luật.

(iv) Bồi thường do vi phạm thời hạn báo trước theo khoản 2 Điều 38 và khoản 5 Điều 42 BLLĐ năm 2012: Căn cứ theo tin nhắn của ông S gởi cho nguyên đơn ngày 03/11/2020 có sự thừa nhận của nguyên đơn thì vào ngày trên nguyên đơn được chuyển sang làm việc ở kho, và ông Sang có báo nguyên đơn đến 30/11 nguyên đơn liên hệ với văn phòng để làm thủ tục thanh lý hợp đồng lao động. Như vậy, có thể thấy nguyên đơn đã được thông báo trước 27 ngày, vi phạm thời hạn báo trước 18 ngày. Tòa án cấp sơ thẩm buộc bị đơn phải bồi thư ng do vi phạm th i hạn báo trước là đúng nhưng do tính toán sai nên tòa án cấp phúc thẩm có sửa lại (5.827.872đ/30ngày : 26 ngày) x 18 ngày = 4.034.680đ.

(v) Yêu cầu buộc công ty J đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, BHTN từ tháng 12/2020 đến khi nhận nhận ông T trở lại làm việc: Tòa án cấp sơ thẩm Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 42 Bộ luật lao động năm 2012, các điều 19, 21, 85, 86 và 89 của Luật bảo hiểm xã hội năm 2014; khoản 4 Điều 3, Điều 43 và Điều 57 của luật việc làm năm 2013 nên Hội đồng xét xử cần buộc cả Công ty J và ông T đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho ông T trong những ngày ông T không được làm việc tính từ tháng 12/2020 đến khi nhận ông T trở lại làm việc với mức lương 4.729.400đồng/tháng theo quy định của pháp luật tại cơ quan bảo hiểm có thẩm quyền. là đúng. Tuy nhiên trách nhiệm đóng số tiền phạt chậm đóng của bị đơn chưa được Tòa án cấp sơ thẩm đề cập nên cấp phúc thẩm bổ sung phần này.

8. Bản án lao động phúc thẩm số 06/2024/LĐ-PT ngày 23/4/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An về việc tranh chấp về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động

Nội dung sửa án 

(i) Tuy nhiên, thỏa thuận đền bù giữa Bệnh viện Đa khoa tỉnh L và bà V là không phù hợp với chi phí đền bù và cách tính chi phí đền bù được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 8 Nghị định 101/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức. Đối với chi phí đào tạo các lớp ngắn hạn với số tiền 42.346.300 đồng thì giữa Bệnh viện Đa khoa và bà V không có cam kết về quyền và nghĩa vụ cụ thể khi tham gia các lớp bồi dưỡng đó; hơn nữa tại Điều 7 Nghị định 101/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 quy định cán bộ, công chức, viên chức, được cử đi đào tạo từ trình độ trung cấp trở lên mới phải chịu trách nhiệm đền bù chi phí đào tạo. Do đó các lớp đào tạo ngắn hạn mà bà V tham gia không thuộc trường hợp phải đền bù, cấp sơ thẩm xử bác yêu cầu của bị đơn là phù hợp nên không chấp nhận kháng cáo của bị đơn về phần này.

(ii) Tuy nhiên, bản án sơ thẩm không tuyên bác một yêu cầu phản tố của Bệnh viện Đa khoa tỉnh L về việc yêu cầu bà V đền bù chi phí đào tạo với số tiền 260.304.300 đồng là thiếu sót nên cấp phúc thẩm tuyên bổ sung về phần này cho phù hợp.

9. Bản án lao động phúc thẩm số 02/2023/LĐ-PT ngày 12/12/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum về việc tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động

Nội dung sửa án 

(i) Còn bị đơn cho rằng đây là loại HĐLĐ ngắn hạn, việc sửa chữ “ngắn” thành “dài” để rút lương vì hợp đồng ngắn hạn Kho bạc không cho rút nhưng do có khiếu nại nên sửa lại lần nữa chữ “dài hạn” thành “ngắn hạn”. Xét HĐLĐ thấy rằng: Thời hạn ghi trong hợp đồng từ ngày 01/10/2006 đến ngày 31/12/2007. Và Theo Thông báo số 32/TB-NVLĐ về việc chấm dứt hợp đồng lao động đối với ông C, ngày 26/12/2007 của Phòng Nội vụ - LĐTB & XH thể hiện nội dung: “Năm 2006 do tính chất công việc Phòng Nội vụ - LĐTB & XH huyện đã ký HĐLĐ có thời hạn đối với ông Ngô Văn C từ ngày 01/10/2006”. Căn cứ vào HĐLĐ và Thông báo này thì xác định đây là loại HĐLĐ xác định thời hạn và hợp đồng thỏa thuận thời điểm bắt đầu từ ngày 01/10/2006 và thời điểm chấm dứt ngày 31/12/2007 là trong khoảng thời gian từ 12 tháng đến 36 tháng theo quy định tại điểm b, khoản 1 Điều 27 Bộ luật lao động sửa đổi bổ sung năm 2002, vì vậy lời khai của bị đơn có căn cứ để chấp nhận.

(ii) Mặt khác, HĐLĐ do Trưởng phòng Phòng Nội vụ - LĐTB & XH ông Nguyễn Ba k là trái với Nghị định số 68/2000/NĐ-CP ngày 17/11/2000 của Chính phủ; Nghị định số 130/2005/NĐ-CP ngày 17/10/2005 của Chính phủ vả Thông tư liên tịch số 03/2006/TTLT/BTC-BNV ngày 17/01/2006 của Bộ T1, quy định về chế độ tự chủ tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với cơ quan nhà nước quy định tại mục I phần II “ Căn cứ vào yêu cầu công việc và trong phạm vi nguồn kinh phí quản lý hành chính được giao, Thủ trưởng cơ quan (các cơ quan chuyên môn thuộc UBND huyện) được hợp đồng thuê khoán công việc hoặc hợp đồng lao động đối với các chức danh: Bảo vệ, lái xe, tạp vụ, vệ sinh”. Như vậy, HĐLĐ ông Nguyễn Ba k với ông Ngô Văn C ngày 01/10/2006 với chức danh là cán bộ làm công việc chính sách là trái pháp luật và không đúng thẩm quyền.

(iii) Đối với số tiền 8.477.136 đồng ông Nguyễn B đã trả cho ông C từ nguồn kinh phí của Phòng Nội vụ - LĐTB & XH theo Quyết định Công nhận sự thỏa thuận số 01/2008/QĐST-LĐ ngày 18/4/2008 của Tòa án nhân dân huyện ĐăkGlei đã bị hủy, đây là số tiền đã trả không đúng. Do đó, ông C phải trả lại số tiền 7.311.530 đồng (8.477.136 đồng -1.165.606 đồng) cho Phòng N1. Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm bị đơn Phòng Nội vụ - LĐTB & XH và UBND huyện Đ tự nguyện hỗ trợ cho ông C nên HĐXX ghi nhận nội dung này và không buộc nguyên đơn trả lại.

10. Bản án lao động phúc thẩm số 875/2023/LĐ-PT ngày 23/8/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về việc tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động

Nội dung sửa án 

Xét; Căn cứ quy định của Bộ luật Lao động năm 2019 tại Điều 13, Điều 15, Điều 90 có cơ sở xác định giữa bà Đ và Công ty có mối quan hệ việc làm, có trả công tiền lương, có sự quản lý, điều hành, giám sát của Công ty đối với bà Đ nên xác định quan hệ làm việc giữa bà Đ và Công ty là quan hệ lao động, nhưng không ký hợp đồng lao động là chưa đúng theo quy định của pháp luật lao động.

Cấp sơ thẩm xác định hợp đồng bà Đ không xác định thời hạn là không đúng.

Góp ý