
Tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng cạnh tranh là gì? Người phiên dịch trong tố tụng cạnh tranh được quy định như thế nào?
Luật sư cho tôi hỏi: Hôm trước, tôi có đọc tin về một vụ việc cạnh tranh được giải quyết ở Hà Nội, nhưng trong đó có một bên là doanh nghiệp nước ngoài, đại diện của họ không biết tiếng Việt. Tôi băn khoăn lắm, vì nghĩ nếu ra phiên điều trần mà các bên không hiểu nhau thì chắc khó giải quyết công bằng. Vậy trong tố tụng cạnh tranh, tiếng nói và chữ viết chính thức được sử dụng là gì? Và pháp luật quy định như thế nào về người phiên dịch để bảo đảm các bên có thể trình bày, bảo vệ quyền lợi của mình một cách đầy đủ? Mong luật sư giải đáp.
MỤC LỤC
1. Tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng cạnh tranh là gì?
2. Người phiên dịch trong tố tụng cạnh tranh được quy định như thế nào?
Trả lời:
1. Tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng cạnh tranh là gì?
Trong hoạt động thực thi pháp luật cạnh tranh, việc xác định rõ phạm vi và tính chất của quá trình xử lý vụ việc là điều cần thiết để bảo đảm tính thống nhất và minh bạch. Vì vậy, tại khoản 8 Điều 3 Luật Cạnh tranh 2018 đã đưa ra định nghĩa về "tố tụng cạnh tranh" nhằm làm rõ nội hàm của khái niệm này cũng như của toàn bộ quá trình pháp lý liên quan như sau:
“Điều 3. Giải thích từ ngữ
Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
8. Tố tụng cạnh tranh là hoạt động điều tra, xử lý vụ việc cạnh tranh và giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh theo trình tự, thủ tục quy định tại Luật này.”
Như vậy, tố tụng cạnh tranh được hiểu là toàn bộ hoạt động điều tra, xử lý vụ việc cạnh tranh và giải quyết khiếu nại xử lý vụ việc cạnh tranh theo trình tự, thủ tục do Luật Cạnh tranh 2018 quy định. Việc làm rõ khái niệm này là cơ sở để các cơ quan có thẩm quyền thực hiện đúng chức năng, đồng thời giúp các bên liên quan nắm rõ quyền và nghĩa vụ của mình trong suốt quá trình giải quyết vụ việc.
Bên cạnh việc hiểu khái niệm của thuật ngữ “tố tụng cạnh tranh” thì ngôn ngữ là công cụ không kém phần quan trọng để bảo đảm mọi người có thể tham gia và bảo vệ quyền lợi của mình trong quá trình này. Trong lĩnh vực tố tụng cạnh tranh, việc quy định thống nhất về tiếng nói và chữ viết không chỉ giúp quá trình giải quyết vụ việc diễn ra hiệu quả, mà còn bảo đảm quyền bình đẳng của các bên. Vì thế, Điều 55 Luật Cạnh tranh 2018 đã quy định:
“Điều 55. Tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng cạnh tranh
Tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng cạnh tranh là tiếng Việt. Người tham gia tố tụng cạnh tranh có quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình, trong trường hợp này phải có người phiên dịch.”
Như vậy, theo quy định trên đã xác định tiếng Việt là tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng cạnh tranh, đồng thời pháp luật tôn trọng quyền sử dụng tiếng nói và chữ viết của dân tộc người tham gia tố tụng cạnh tranh, tuy nhiên trường hợp này phải có người phiên dịch. Sự ghi nhận này vừa bảo đảm tính thống nhất của thủ tục pháp lý, vừa gìn giữ và phát huy bản sắc ngôn ngữ của các dân tộc trong khuôn khổ pháp luật.
2. Người phiên dịch trong tố tụng cạnh tranh được quy định như thế nào?
Theo quy định tại khoản 8 Điều 66 Luật Cạnh tranh 2018 ghi nhận người phiên dịch là một trong số những người tham gia tố tụng cạnh tranh, chi tiết:
“Điều 66. Người tham gia tố tụng cạnh tranh
8. Người phiên dịch.”
Chính vì bảo đảm cho mọi người tham gia đều hiểu và trình bày được ý kiến của mình, đây là yếu tố then chốt để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Đối với những trường hợp không sử dụng được tiếng Việt hoặc là người khuyết tật nghe, nói, vai trò của người phiên dịch trở nên đặc biệt quan trọng nhằm duy trì sự minh bạch, công bằng và chính xác trong quá trình giải quyết vụ việc. Thế nên Điều 71 Luật Cạnh tranh 2018 đã quy định rõ hơn về chủ thể này như sau:
“Điều 71. Người phiên dịch
1. Người phiên dịch là người có khả năng dịch từ một ngôn ngữ khác ra tiếng Việt và ngược lại trong trường hợp có người tham gia tố tụng cạnh tranh không sử dụng được tiếng Việt. Người phiên dịch có thể được Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh, Hội đồng xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh yêu cầu để phiên dịch hoặc do bên khiếu nại, bên bị điều tra hoặc người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan lựa chọn hoặc do các bên thỏa thuận lựa chọn nhưng phải được Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh, Hội đồng xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh chấp thuận.
2. Người phiên dịch có quyền và nghĩa vụ sau đây:
a. Có mặt theo giấy triệu tập;
b. Phải phiên dịch trung thực, khách quan, đúng nghĩa;
c. Đề nghị người tiến hành tố tụng cạnh tranh, người tham gia tố tụng cạnh tranh giải thích thêm nội dung cần phiên dịch;
d. Không được tiếp xúc với người tham gia tố tụng cạnh tranh khác nếu việc tiếp xúc đó làm ảnh hưởng đến tính trung thực, khách quan, đúng nghĩa khi phiên dịch;
đ. Được thanh toán các chi phí có liên quan theo quy định của pháp luật.
3. Người phiên dịch phải từ chối tham gia tố tụng cạnh tranh hoặc bị thay đổi trong các trường hợp sau đây:
a) Là bên khiếu nại, bên bị điều tra, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hoặc là người thân thích của bên khiếu nại, bên bị điều tra, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;
b) Đã tham gia tố tụng cạnh tranh với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, người làm chứng, người giám định trong cùng vụ việc cạnh tranh;
c) Có căn cứ rõ ràng cho rằng họ có thể không vô tư khi làm nhiệm vụ.
4. Quy định của Điều này cũng được áp dụng đối với người hiểu biết dấu hiệu của người tham gia tố tụng cạnh tranh là người khuyết tật nghe, nói. Trường hợp chỉ có người đại diện hoặc người thân thích của người tham gia tố tụng cạnh tranh là người khuyết tật nghe, nói hiểu biết được dấu hiệu của họ thì người đại diện hoặc người thân thích có thể được Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh hoặc Hội đồng xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh chấp nhận làm người phiên dịch cho người khuyết tật đó.”
Như vậy, người phiên dịch được biết đến là người có khả năng dịch từ một ngôn ngữ khác ra tiếng Việt và ngược lại trong trường hợp có người tham gia tố tụng cạnh tranh không sử dụng được tiếng Việt. Theo đó, người phiên dịch có thể được Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh, Hội đồng xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh yêu cầu để phiên dịch hoặc là do bên khiếu nại, bên bị điều tra hoặc người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan lựa chọn hay là do các bên thỏa thuận lựa chọn, nhưng phải được Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh, Hội đồng xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh chấp thuận.
Bên cạnh đó, pháp luật còn nêu rõ những quyền cũng như nghĩa vụ của người phiên dịch một cách rõ ràng nhằm bảo đảm quá trình phiên dịch diễn ra chính xác, khách quan và đáng tin cậy, từ đó giúp mọi người tham gia tố tụng đều có cơ hội hiểu rõ nội dung vụ việc và trình bày đầy đủ ý kiến của mình. Không những vậy, các điều khoản trên còn phòng ngừa những nguy cơ xung đột lợi ích và thiên lệch trong phiên dịch khi quy định những trường hợp mà buộc người phiên dịch phải từ chối tham gia tố tụng cạnh tranh hoặc bị thay đổi. Điều này không chỉ bảo đảm thông tin được truyền đạt đúng sự thật, mà còn củng cố niềm tin của các bên vào tính nghiêm minh của pháp pháp luật về quá trình giải quyết vụ việc cạnh tranh.
Ngoài ra, những quy định tại điều khoản này cũng được áp dụng đối với người hiểu biết dấu hiệu của người tham gia tố tụng cạnh tranh là người khuyết tật nghe, nói. Trong trường hợp chỉ có người đại diện hoặc người thân thích của người tham gia tố tụng cạnh tranh là người khuyết tật nghe, nói hiểu biết được dấu hiệu của họ thì người đại diện hoặc người thân thích có thể được Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh hoặc Hội đồng xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh chấp nhận làm người phiên dịch cho người khuyết tật đó.
Từ những phân tích trên, ta thấy được Điều 71 Luật Cạnh tranh 2018 đã thiết lập một khung pháp lý đầy đủ và chặt chẽ về người phiên dịch trong tố tụng cạnh tranh, từ việc xác định, quyền và nghĩa vụ, các trường hợp phải từ chối hoặc thay đổi, cho đến quy định đặc thù đối với người khuyết tật nghe, nói. Những nội dung này không chỉ bảo đảm mọi người tham gia tố tụng đều có điều kiện hiểu và trình bày ý kiến một cách chính xác, mà còn duy trì tính khách quan, minh bạch và công bằng của toàn bộ quá trình giải quyết vụ việc cạnh tranh. Đây là cơ chế quan trọng để bảo vệ quyền tiếp cận công lý cho mọi cá nhân, không phân biệt ngôn ngữ hay khả năng giao tiếp.
Trân trọng./.