Nội dung hủy án:
(i) Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T1 xác định: “Việc tham gia vụ cướp do các đối tượng nhận thức thấp về pháp luật, chỉ nghĩ hành vi như vậy là đòi tiền phục vụ giùm cho bạn gái. Hành vi tham gia của các bị can có tính chất bộc phát, không có tính toán chuẩn bị từ trước. Việc chiếm đoạt tiền mục đích chính không phải là để phục vụ tiêu xài cá nhân”. Tuy nhiên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố T1 không phân tích, chứng minh được các bị cáo có sự câu kết chặt chẽ, bàn bạc thống nhất và phân công vai trò của từng bị cáo khi thực hiện tội phạm như thế nào, nhưng lại truy tố hành vi phạm tội của các bị cáo thuộc trường hợp phạm tội “Có tổ chức” và Tòa án cấp sơ thẩm nhận định: “Khi phạm tội các bị cáo đã có sự câu kết chặt chẽ, phân công nhiệm vụ cho nhau...”, từ đó xét xử các bị cáo về tội “Cướp tài sản” với tình tiết định khung “Có tổ chức” theo điểm a khoản 2 Điều 168 Bộ luật Hình sự năm 2015 là chưa đủ căn cứ vững chắc.
(ii) Sau khi cùng nhau dùng hung khí nguy hiểm đánh Trầm Thế V, buộc anh V đưa 400.000đ, T tiếp tục bảo Lê Văn D1 khống chế, bắt ép anh V lên xe mô tô, L ngồi sau giữ và D1 điều khiển xe mô tô đưa đến phía sau Trung tâm đào tạo lái xe tỉnh Quảng Nam, không cho anh V vượt ra ngoài sự kiểm soát của các bị cáo. Hành vi trên của các bị cáo đã xâm phạm đến quyền tự do thân thể của anh V, có dấu hiệu phạm tội “Bắt, giữ người trái pháp luật”, quy định tại Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 1999 (Điều 157 Bộ luật Hình sự năm 2015). Vì vậy, cần phải điều tra làm rõ hành vi này để giải quyết toàn diện vụ án.
(iii) Hành vi phạm tội của các bị cáo thuộc trường hợp rất nghiêm trọng, phạm vào khoản 2 Điều 168 Bộ luật Hình sự năm 2015, có khung hình phạt tù từ 7 năm đến 15 năm tù nên cần phải xử phạt các bị cáo mức hình phạt nghiêm khắc mới đủ tác dụng cải tạo giáo dục và răn đe phòng ngừa chung. Các bị cáo phạm tội thuộc trường hợp tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội nhiều lần” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 1999 và chỉ được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999 (tự nguyện bồi thường thiệt hại) và điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải) nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 1999, xử phạt các bị cáo mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt là đánh giá chưa đúng vai trò, tính chất, mức độ nguy hiểm hành vi phạm tội của các bị cáo; mức hình phạt trên là chưa nghiêm, không đảm bảo tác dụng cải tạo giáo dục và răn đe phòng ngừa chung.
(iv) Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm nhận định bị cáo Lê Văn D1 còn bị xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” theo Bản án hình sự sơ thẩm số 42/2018/HS-ST ngày 04/7/2018 của Tòa án nhân dân thành phố T1, tỉnh Quảng Nam và đã có hiệu lực pháp luật, nhưng liên quan đến các bị cáo khác có kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm, nên không tổng hợp hình phạt của bản án nêu, nhưng không tuyên hủy phần tổng hợp hình phạt của bản án sơ thẩm là không đúng quy định của pháp luật. Đồng thời, Lê Văn D1 bị bắt tạm giam ngày 18/8/2017 trong vụ án “Cố ý gây thương tích”, Tòa án cấp sơ thẩm quyết định hình phạt đối với tội “Cướp tài sản” và tổng hợp hình phạt theo bản án hình sự sơ thẩm nêu trên, tuyên thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 18/8/2017 là đúng đắn, Tòa án cấp phúc thẩm không tổng hợp hình phạt của bản án hình sự sơ thẩm nêu trên, nhưng tuyên thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 18/8/2017 là không phù hợp. Các sai sót trên cần rút kinh nghiệm trong quá trình xét xử các vụ án khác.