Quyết định giám đốc thẩm số 15/2024/HNGĐ-GĐT ngày 06/6/2024 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử vụ án hôn nhân gia đình về “Ly hôn, nuôi con, tài sản và nghĩa vụ chung, yêu cầu xác định tài sản riêng và tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản”
Nội dung hủy án:
1. Tòa án cấp phúc thẩm công nhận hợp đồng tặng cho giữa ông H, bà H1 với ông R, bà N, xác định nhà, đất này là tài sản chung của vợ chồng, có tổng giá trị là 9.561.100.800 đồng theo Biên bản định giá tài sản ngày 07/01/2021 là có căn cứ, đúng pháp luật. Tuy nhiên, nhà và quyền sử dụng đất là do bà N nhận thừa kế, ông R thừa nhận không có đóng góp trong việc hình thành tài sản này (biên bản đối chất ngày 24/3/2021 tại Tòa án nhân dân tỉnh B) nên việc Tòa án cấp phúc thẩm chia tài sản này cho bà N chỉ được hưởng 55% giá trị, ông R hưởng 45% giá trị, chỉ chênh lệch số tiền 983.100.080 đồng là không phù hợp với nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn được quy định tại Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, không đảm bảo quyền lợi của bà N.
2. Bà Trần Thị Kim N và ông Nguyễn Văn R ly thân từ năm 2016. Năm 2019, con chung của ông R bà N là cháu Nguyễn Thị Bạch V, sinh năm 2000, đi du học ở Mỹ, chi phí mỗi năm khoảng 800.000.000 đồng. Quá trình giải quyết vụ án, ông R thừa nhận từ khi ly thân, ông không cấp dưỡng, không đóng góp gì để lo cho các con và cho rằng chi phí cho cháu V du học là từ nguồn tài sản chung của vợ chồng, nhưng ông không chứng minh được ông và bà N có nguồn tài sản chung. Xét thấy: ông R là người ký Hợp đồng tư vấn du học số 2101/HĐ-2018 với Công ty TNHH Tư vấn giáo dục CEC để làm thủ tục cho cháu V đi du học; trên trang facebook cá nhân, ông R thừa nhận việc đăng ký cho cháu V đi du học, đưa đi và đón cháu V từ Mỹ về.. những chứng cứ này phù hợp với lời trình bày của cháu V và bà N nên có căn cứ xác định cháu V đi học là được sự đồng ý của ông R và bà N về việc: Cho đi học, hứa chu cấp về học phí, ăn ở ... Ông R không thừa nhận nghĩa vụ chung nhưng số tiền bà N đã chu cấp cho con là có thật. Tòa án cấp sơ thẩm buộc ông R phải chịu ½ nghĩa vụ chung với bà N đối với số tiền bà N đã chu cấp cho cháu V là có căn cứ. Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng cháu V đã thành niên và bà N không bàn bạc với ông R, tự ý vay tiền cho cháu V đi học nên ông R không phải chịu trách nhiệm là không phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.